Chủ Nhật, tháng 11 05, 2006

6. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886) -- THƠ -- VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI, TÂM HỒN & TƯ TƯỞNG / tệp 6

PHẦN THỨ HAI:

CÁC SÁNG TÁC NGOÀI THI TẬP
& phụ lục:
vài bài thơ của những người cùng thời viết về phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường.




TỰ TRÀO



1

TỰ TRÀO

Dĩ thần, bất tài, giảng thuyết chiến hòa tam quốc sự
Duy quân, sở mạng, khi khu sơn hải thất niên gian!


TỰ CƯỜI CHÍNH MÌNH (1)

Bởi bề tôi, [do] không được tài năng, [nên mới] giảng nói
việc chiến [hay] hòa [của] ba nước (2)
Chỉ nhà vua, [với] mệnh lệnh vốn có, [đành chịu] dằn xóc
chốn núi [rồi] biển [suốt] bảy năm (3)!

TỰ CƯỜI GIỄU CHÍNH MÌNH

Vì thần tử tài cạn,
nên phải giảng bàn về việc chiến hòa ba nước
Chỉ hoàng thượng lệnh truyền,
cam đành dằn xóc với miền non biển bảy năm!


Bởi bầy tôi, tài thiếu,
giảng bàn việc chiến hòa ba nước
Duy nhà vua, lệnh sẵn,
dằn xóc miền non biển bảy năm!


Dụng thần bất tài,
luận chiến giải hoà ba đất nước
Hay vua sẵn lệnh,
trèo non bơi biển bảy năm trời!
(4)

TRẦN XUÂN AN
chuyển theo thể loại

(1) Câu đối treo trong nhà của nhà thơ Nguyễn Văn Tường, tại làng An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chúng tôi chép lại từ tư liệu của nhà thơ Lương An. Đầu đề chúng tôi mạo muội đặt, căn cứ vào nội dung, thay vì đặt số thứ tự.

(2) Việt Nam, Pháp (+ Tây Ban Nha) và Trung Hoa, đúng như đầu đề cuốn sách của sử gia Nhật Y. Tsuboi (NĐNĐDVP. & TH., sđd.)!

(3) Từ cuối năm 1867, đầu năm 1868 đến 1875. Xem chú thích (3), bản dịch nghĩa bài 50; Y. Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 270: trích dẫn tư liệu lưu trữ của Pháp (thư báo cáo của Rheinart, 30. 11. 1881, AOM. Aix, Amiraux 12940 và theo Taboulet): “Khi trở thành đứng đầu phe cứng rắn, chính Tường đã xúi Tự Đức xem thường hiệp ước 1874...”. Xem thêm chú thích (4) bản dịch nghĩa bài 47; và chủ điểm 3 của bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885” (TXA.).

Nguyễn Văn Tường không chấp nhận bất kì một hàng ước, nhượng ước (được gọi là “hòa” ước) nào (1862, 1874, 1883, 1884), kể cả phụ ước 1885.

(4) Chữ “dĩ” kết từ (liên từ) trên còn có thể là một động từ, với nghĩa là dùng, lấy. Chữ “duy” cũng tương tự như vậy về từ loại; nếu là động từ thì có nghĩa là tưởng nhớ, suy nghĩ. Ở bản dịch thứ ba của cặp câu đối này, về số lượng chữ và về thanh (trắc / bằng) của mỗi chữ, người biên soạn (TXA.) cố gắng tái hiện y như nguyên bản chữ Hán.




ĐIẾU BÙI VIỆN


2

ĐIẾU BÙI VIỆN (1)

Hiệp sơn siêu hải tri thuỳ kiện
Ái quốc tư gia chỉ tự bi
(2)

Cắp non vượt biển ai là mạnh
Yêu nước thương nhà nghĩ tự đau


PHAN TRẦN CHÚC
dịch theo thể

THƯƠNG VIẾNG BÙI VIỆN (1878)

Cắp núi vượt biển (3), biết ai [:nước nào] mạnh (4);
Yêu nước, suy nghĩ về gia đình (nhớ nhà), ngoảnh về (5)
[Tổ quốc], tự đau xót (khóc thầm).

THƯƠNG VIẾNG BÙI VIỆN (1878)

Cắp non vượt biển, hay ai mạnh
Yêu nước thương nhà, nghĩ tự đau
(6).

(bản biên soạn)

(1) Bùi Viện (ĐNTL.CB., tập 34, Nxb. KHXH., 1976, tr. 65 và tr. 187 - 188). Xin xem thêm chú thích (7).

(2) Trong cuốn “Bùi Viện với cuộc duy tân của triều Tự Đức” của Phan Trần Chúc (Nxb. Đại La, Hà Nội, cuối 1945; Nxb. Kiến Thiết, đầu năm 1946), Nxb. Văn hoá Thông tin, tái bản năm 2000, tr. 105 - 106, có ghi lại hai câu đối trên của Nguyễn Văn Tường, phúng điếu Bùi Viện, chánh quản đốc Nha Tuần tải vốn trực thuộc Bộ Hộ của ông, vào năm Tự Đức thứ ba mươi mốt (1878). Đầu đề người biên soạn mạn phép đặt.

(3) Hiệp sơn siêu hải: “cắp [:kẹp] núi vượt biển”, là một thành ngữ diễn tả sự khó khăn, cam go đến mức tưởng chừng không thể vượt qua được.

(4) Nước mạnh ở đây chính là Mỹ (Mỹ Lợi Kiên [US. America], Hoa Kỳ). Bùi Viện trong thời gian ở Hồng Kông (Hương Cảng) có tìm cách làm quen với một sứ thần Mỹ. Nhờ vậy, ông quyết sẽ sang Mỹ cầu viện. Đến nước Mỹ, mặc dù được tổng thống Ulysses S. Grant (chứ không phải Abraham Lincoln) tiếp chuyện, với lời hứa hẹn là sẽ giúp nước ta. Nhưng bởi không có quốc thư, nên việc vẫn chưa đi đến đâu. Lần sau, khi Bùi Viện mang quốc thư sang Mỹ, lại biết Grant đã chết. Kế hoạch cầu viện Mỹ vì thế hoàn toàn thất bại. Về nước, không bao lâu, Bùi Viện cũng qua đời (1878). Theo Phan Trần Chúc, thực chất lời hứa giúp của tổng thống Mỹ là nhằm hất cẳng Pháp và để cạnh tranh với các nước thực dân châu Âu khác! (Xem Phan Trần Chúc, sđd., tr. 29 - 35, tr. 38 - 49).

(5) Chỉ: Với mặt chữ có bộ thủ, “chỉ” có nghĩa là xoay về hoặc ý hướng; với mặt chữ không có bộ thủ, “chỉ” là ý tứ, ý hướng (nếu cùng nghĩa ý hướng, hai chữ thủ này khác chữ nhưng cùng nghĩa). Động từ “chỉ” (xoay về) này tiểu đối với động từ “tri” ở câu trên. Dịch sát nghĩa như trên.

(6) Do chữ “kiện” (mạnh mẽ, hùng mạnh) là một tính từ, nên từ “bi” (thương đau) cũng phải là một tính từ. Ở trường hợp khác, “bi” (thương đau, thương xót) là động từ. Xin xem chú thích (2) bài “Vô đề” của Nguyễn Thượng Hiền (mục số 5 thuộc “Phần sáng tác ngoài Thi tập và phụ lục…” này):

Không quá Tây môn, bi thái phó
Thùy tòng Bắc hải, vấn trung lang.


Trong trường hợp này, “bi” dứt khoát phải là động từ, vì chữ “vấn” không thể thuộc từ loại nào khác. Về từ loại, “vấn” luôn luôn là động từ. Về kết cấu ngữ pháp, “vấn” cũng phải là động từ làm vị ngữ của một chủ ngữ hiểu ngầm:

Không quá Tây môn, [ngã] bi thái phó
Thùy tòng Bắc hải, [quân] vấn trung lang.


(7) Sau khi Bùi Viện đã chết (1878), vào năm Tự Đức thứ ba mươi bốn (1881), vua Tự Đức còn nhắc đến ông, khi trách phạt đến bảy vị quan, gồm sáu đại thần, đường quan ở Viện Cơ mật và ở Sở Thương bạc (Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Chính, Phạm Thận Duật, Bùi Văn Dị [:Bùi Ân Niên], Trần Thúc Nhẫn), và cả viên Tham biện Nội các Đào Đăng Tiến [:Đào Tấn (nhà soạn tuồng)], khi họ muốn mở rộng quan hệ ngoại giao nhằm tìm lực lượng đối trọng với Pháp. Pháp lúc này đang chuẩn bị âm mưu để gây hấn và tấn công, chiếm đóng Bắc Kì lần thứ hai. Đó cũng là lúc Phạm Phú Thứ bị triệu về kinh để chịu trách phạt. Bấy giờ, vua Tự Đức không muốn các đại thần, đường quan giao du với cả Phạm Phú Thứ (đang bị giam lỏng để điều tra); nhà vua vẫn không muốn tin việc thực dân Pháp âm mưu xâm chiếm Bắc Kì lần thứ hai là có thật, lại cho là “hoang báo”, “nói hão tin càn”! Bài dụ trách phạt, vua Tự Đức viết: “… Vả người bầy tôi ắt phải có đạo [lí], dù muốn giao du rộng rãi, cũng phải chọn người mà chơi, muốn hiến kế sách tất phải cho có sự thực, chứ có thể nào nói nhiều nghe bậy, không có một mảy may nào là thực tế? Nay tự hỏi lòng mình, liệu như thế có an tâm không? Ngay đến như việc viên Bùi Viện, nếu không có người dẫn tiến, thì trẫm làm sao biết được? Vậy đã lầm lỡ một lần rồi, há lại nên để cho xảy ra lần nữa hay sao?…” (Thơ văn Tự Đức [3 tập], tập 2, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1996, tr. 167). Thời điểm Tự Đức viết bản dụ quở trách trên là ngày 24 tháng 02 năm Tự Đức thứ ba mươi bốn (1881).

Chúng ta đã biết rằng, Bùi Viện không những kiếm tìm sự ủng hộ, viện trợ ở Mỹ (Hoa Kỳ, thời tổng thống Grant) mà còn thu phục các lực lượng hải tặc nước Thanh (Trung Hoa) vào đội quân vận tải do ông chỉ huy. Cuối cùng, Bùi Viện đã thất bại ở cả hai hướng. Khi Bùi Viện mất, còn để lại sự thâm thủng ngân quỹ của Nha Tuần tải đến vài ba chục vạn quan! (Xem: Phan Trần Chúc, sđd.).

Tất nhiên, đối với các đại thần Viện – Bạc như trên đã nêu tên, sự mở hướng ngoại giao nhằm tìm lực lượng đối trọng với Pháp lúc này (1881), không thể là bọn hải tặc, mà chỉ có thể là Chiêu thương cục do Đường Đình Canh đại diện trong việc giao thiệp với nước ta…

Dẫu sao, Bùi Viện vẫn là một hình ảnh của nỗ lực tìm kiếm lực lượng đối trọng với Pháp và tìm kiếm hướng canh tân Đất nước thuộc nửa sau thế kỉ muời chín (XIX) ở nước ta, trong bối cảnh bế tắc chung của nhiều châu lục…



GIẢI TRIỀU



3

GIẢI TRIỀU...

Tam thập niên lai phí kỉ kinh (1)
Vô đoan dạ bán bách sầu sinh
Kì khai tam sắc, vân (2) lôi biến
Già thính song xuy, kê khuyển kinh
Sơn kính (3) vạn trùng thương (4) thúy liễn
Thần tâm nhất dạng (5) luyến đan đình
Thị phi nhiên phó (6) thiên thu hậu
Xã tắc quân vương thục trọng khinh?
(7)

(1) Các dị bản: minh / kinh (kỉ minh? kỉ kinh?).

(2) Các dị bản: vân / phong (vân lôi? phong lôi?).

(3) Các dị bản: kính / sắc?

(4) Các dị bản: thương / minh?

(5) Các dị bản: nhất dạng / bất nhị?

(6) Các dị bản: nhiên phó / phó dữ?

(7) Bài thơ này đã được truyền tụng từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (23. 5 Ất dậu, 1885), như một mật lệnh phối hợp giữa phong trào Cần vương vũ trang và những người ở lại; sau đó, bài thơ chỉ được ghi lại bốn câu cuối với bản dịch không rõ ý, bị xuyên tạc (xem Phan Trần Chúc, “Vua Hàm Nghi”, Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951; Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 83 - 84). Do bài thơ được truyền khẩu, nên có một vài chữ bị dị biệt ở các dị bản, nhưng ý nghĩa vẫn không thay đổi như ở (1), (2), (3)... Ngoài ra, còn một số bản khác, in, xuất bản ở nhiều sách báo, thường chỉ trích dịch bốn câu cuối (xem: Nguyễn [Tôn Thất] Mạnh Hào, Kỉ yếu Hội nghị khoa học về “Nhóm chủ chiến trong Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, ĐHSP. TP. HCM., 1996, tr. 90; Hải Âu, “Vua Hàm Nghi”, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2000, tr.124 - 127; Hồ Sĩ Vọng, phiên âm, dịch thơ, Lê Quang Thái dẫn trọn bài bát cú, tạp chí Cửa Việt, số 13, 1992, tr. 82; Lương An, bản lưu trữ gồm cả tám câu...).

Trích từ cuốn “Vua Hàm Nghi” của Phan Trần Chúc (sách đã dẫn):
“Muốn phô tả tâm sự mình trong lúc khó khăn này, [Nguyễn Văn – nbs. chua thêm] Tường có làm một thiên Đường luật nay vẫn còn bốn câu truyền tụng [– nbs. in đậm]:
Sơn tắc (*a) thiên trùng thương (*a) thúy liễn
Thần tâm nhất dạng luyến đan đình
Thị phi nhiên phó thiên thu hậu
Xã tắc, quân vương thục trọng khinh?

(Xe giá ngàn trùng lẫn dặm xanh
Lòng tôi riêng luyến chốn đan đình
Phải, chăng, phó mặc ngàn sau luận
Vua, nước, đôi đường, hỏi trọng khinh?).


Trong mấy câu thơ này, [Nguyễn Văn] Tường có ý nói rằng mình sở dĩ không đi theo xa giá là vì còn muốn ở lại để duy trì xã tắc. Đi với ở, đằng nào phải, là tùy theo sự phán đoán đời sau. Vì, vua với nước, chưa hẳn đã đằng nào đáng khinh, đáng trọng”.

(Phan Trần Chúc, “Vua Hàm Nghi”, Nxb. Chính Ký, Hà Nội – 1951. Trích theo sách tái bản của Nxb. Thuận Hóa, 1995, tr. 83 - 84).


CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH...

Ba mươi năm qua, [quả là] phí phạm bao nhiêu tâm trí
[đối phó với thực dân]! (*b)
[Vào lúc] nửa [đêm, cái] đêm không ngay thật [ấy, bọn giặc
và tả đạo] ép bức [khiến] nỗi buồn [uất] dậy lên
Cờ [Pháp] mở ra [:chặt ra, chẻ ra] ba màu, mây [và] sấm
[quyền] biến
[Cái] kẹp tay để tra tấn nghe theo [cái] roi cặp,
gà [và] chó kinh hãi
Đường mòn [trên rừng] núi [dài và xanh ngắt] vạn trùng,
lo lắng [cho] kiệu (xe vua) [vốn dĩ luôn] kín đáo
Lòng [của] kẻ bề tôi [cũng] một dạng thể [như thế], thương mến nên không nỡ rời bỏ sân son
Đúng, sai, [lẽ] ấy [xin] gửi [cho] cái mai sau [có tính] nghìn thu (muôn đời) [nhận định, đánh giá]
Đất nước, nhà vua, điều gì [đáng xem] trọng,
[xem] nhẹ [đây]?

TAN TÁC TRIỀU ĐÌNH...

Ba chục năm qua phí trí mình (a)
Nửa-đêm-gian-tả (b) ép (b) buồn sinh
Cờ chia ra khoảnh (c); mây giông nổ (d)
Kẹp xiết theo roi; gà chó kinh (đ)
Núi biếc (e) vạn trùng thương kiệu Ngự (g)
Lòng son (h) một thể luyến sân Đình (i)
Phải, chăng, xin gửi nghìn thu luận (k)
Theo nước – phò vua, đâu trọng, khinh (l)?


CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH...

Gươm phí bao năm, mấy bút mòn (1)
Nửa khuya (2) vô cớ ép bùng hờn (3)
“Tam tài”, cờ xổ (4); giông quyền sấm (5)
Roi cặp, kẹp tra; chó rủn hồn (6)
Đường núi (7) vạn trùng lo kiệu biếc (8)
Lòng tôi một dạng giữ (9) sân son (10)
Đúng, sai, ấy gửi nghìn sau luận (11)
Nhẹ? Nặng? Phò vua? Luyến nước non (12)?


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

CHÚ THÍCH VÀ TRÌNH BÀY CÁCH DỊCH THƠ:

(a) Phí trí mình (dịch thoát lấy vần). Nguyên nghĩa: phí phạm, hao phí bao nhiêu là kinh lịch, tâm trí. Trong bài thơ số 44, có câu: “Kỉ kinh sương tuyết phí mang bôn”.

(b) Nửa đêm-gian-tả: Vô-đoan-dạ bán. Đối chiếu với bối cảnh lịch sử và xét văn cảnh toàn bài, không thể dịch “vô đoan” là “vô cớ” được. Vả lại, ý vô cớ ấy đã hàm ẩn, bởi hầu hết các nguồn tư liệu đã xác định chính thực dân Pháp, cụ thể là De Courcy, đã cố tình bức bách triều đình Huế, mặc dù triều đình vừa lo phòng thủ (*c), vừa cố hết sức hoà hoãn, không tạo cớ cho Pháp tấn công kinh thành. Xem (k). Xin lưu ý: Ở bài thơ số 22 (Cửu nguyệt ngộ húy cảm tác), Nguyễn Văn Tường đã sử dụng chữ “bách” [bức bách] như trong câu trên (Đãi đán thư hoài bách trụy sương). Xem (3), bài này.

(c) Ba màu: tam sắc. Ở đây, chỉ cờ nước Pháp treo trên kì đài kinh thành Huế sau đêm Kinh Đô Quật Khởi, 22-23.5 Ất dậu (1885), với cách đặc tả trong điều kiện thế kỉ XIX.

(d) Bản dịch này vẫn thể hiện sự cảm nhận hai chữ “phong lôi” theo nghĩa của văn cảnh toàn bài và căn cứ vào kế hoạch kháng chiến (từ 1864) của Nguyễn Văn Tường, không theo nghĩa sử dụng thiếu chính xác (“phong lôi” khác với “vân lôi thời tiết”: thời vận anh hùng ra tay – xem Đào Duy Anh, Từ điển Hán – Việt, Nxb. Trường Thi, 1957, quyển hạ, tr. 123, 540). “Phong lôi” hay “vân lôi” cũng vẫn là hình ảnh chỉ lực lượng kháng chiến vũ trang do Tôn Thất Thuyết lãnh đạo. Trong một bài thơ của vua Tự Đức viết cho con trai Nguyễn Tư Giản, có câu: “Vân lôi chí cấp, giang hồ hoãn” (Mây sấm chí vội, sông hồ hoãn) [Xem: ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 253].
(đ) Kẹp (già), roi cặp (song xuy) là dụng cụ tra tấn của Pháp. Kẻ tra tấn bằng kẹp dựa theo lời ghi cung của kẻ tra tấn bằng roi cặp để khai thác tù binh, tù chính trị. Gà, chó: chỉ lũ không xứng làm người trước sự tra tấn của giặc. Câu này bị xuyên tạc chữ “già” (:kèn lá [của trẻ con]), nhằm bôi nhọ Tôn Thất Thuyết, cho rằng trong thực tế, Tôn Thất Thuyết ghét tiếng gà, tiếng chó thật, chứ không phải là ghét bọn người hèn nhát vốn bị nguyền rủa như gà chó như trên đã phân tích.

(e) Núi biếc; dịch chính xác là “đường núi” (sơn kính) hoặc “sắc núi”, “màu núi” (sơn sắc). Xem (g).

(g) Kiệu Ngự; “thúy liễn” ở nguyên bản: xe, kiệu kín đáo, còn gọi là xe loan (xe có chim loan làm biểu trưng hoặc có tiếng lục lạc tượng trưng cho tiếng chim loan, hoặc chỉ là cách gọi dựa theo điển tích cổ). Dịch thay chữ là “kiệu Ngự”, chuyển ý cho “sơn sắc”, “sơn kính”. Xem (e).

(h) Lòng son; dịch thay chữ, lẽ ra “thần tâm” phải dịch sát nghĩa là “lòng bề tôi”, “lòng tôi”. Xem (i).

(i) Sân Đình; lẽ ra phải dịch “đan đình” là “sân son” (sân chầu vua, thời xa xưa được lát gạch đỏ). “Thần tâm” và “đan đình” được dịch thay chữ, ghép ý như (e) với (g).

(k) Nguyên văn: thiên thu hậu (nghìn thu sau; cái mai sau có tính muôn đời mà sách sử và công luận không quên được). Bản dịch tiếng Việt này chỉ dịch thoát, sót ý và thêm chữ “luận” (bàn xét, bình phẩm), theo ẩn ý. Về cấu tạo ngữ, xem (b).



(l) Theo ẩn ý, có thêm hai chữ “theo” và “phò”. “Theo nước” là theo vận nước, tình hình giữa ta và giặc Pháp, sức mạnh quật khởi của phong trào đấu tranh vũ trang Cần vương (đánh) mà thương thuyết, đấu tranh chính trị (đàm).

(1), (2) Xem chú thích bên trên: (a), (b),

(3) Ép dậy nỗi hờn (bách sầu sinh). Xem lại (b). “Sầu” là buồn rầu, buồn bã, buồn uất, buồn nghẹn... “Sầu hải” người ta vẫn dịch là mối giận [dữ] như biển (mối sầu uất dậy sóng khôn nguôi), [TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 190]. Ở đây dịch là “nỗi hờn” (“nỗi ngậm hờn”), theo ngữ cảnh, theo ẩn ý.

(4) Xem chú thích bản dịch trên: (c).

(5) Biến; dịch cả ẩn ý, thành “quyền biến”.

(6) Xem chú thích bản dịch trên: (đ).

(7) Đường núi: “sơn kính”, đường mòn trên núi rừng. Ý toàn câu: cả núi rừng bạt ngàn đều lo lắng, chăm lo, lo nghĩ về Hàm Nghi.

(8), (10) Xem chú thích bản dịch trên: (g), (i).

(9) Luyến: thương mến nên không nỡ rời bỏ (TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 526). Dịch là “giữ” bởi muốn dịch cả ẩn ý của “nhất dạng” (cùng một dạng thể, một thể thức).

(11), (12) Xem các chú thích bản dịch trên: (k), (l).

Bị chú: Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có bản dịch của Lương An với hai câu thực và hai câu luận như sau:

Kèn hai tiếng thổi kinh gà chó
Ba sắc cờ bay ám đất trời
Đường núi nghìn trùng băng giá ngự
Thềm son một quyết hướng lòng tôi


từ bản phiên âm giống hệt như trên, chỉ khác hai chữ: “xuyên” (xuyên qua, băng băng chạy nhanh, rẽ ra, mở lối trống lộng); “thiên” (nghìn):

Sơn kính thiên trùng xuyên thúy liễn

Chữ “già” có nghĩa là “kèn lá”. “Xuy” là “thổi”. Chữ “biến” có nghĩa là “đều khắp”, “khắp cả, nơi nào cũng có”.

Tất nhiên, chỉ là cùng âm đọc nhưng khác mặt chữ với “già” là cái kẹp tay để tra tấn, “xuy” là cái roi, “biến” là dùng mưu chước lạ để ứng phó với tình huống (quyền biến, chữ “quyền” trong Dụ Cần vương).

Và chẳng hiểu vì sao “kèn nghe hai tiếng thổi”, nếu dịch sát nghĩa “già thính song xuy”? Xuy: que, lẻ (roi) đánh nhịp? Theo phép làm thơ có tiểu đối, cờ “tam tài” Pháp đối với dụng cụ tra tấn khi chúng đi cướp nước mới thật sâu sắc, và dung lượng phản ánh hàm súc, đúng với hiện thực hơn. Dùng trọn hai vế đầu của hai câu thực để tả buổi chào cờ có kèn thổi của Pháp, thì chưa thật hàm súc.

Chúng tôi còn hiểu, theo văn lí, nếu dùng chữ “xuyên” thì chữ “kính” phải là “gương” (tấm kính), chỉ mặt trời, mặt trăng:

Gương núi vạn trùng soi kiệu ngự
(Gương núi vạn trùng xuyên kiệu ngự)


Có thể chăng, chỉnh lí lại bản dịch Lương An:

Ba chục năm qua phí trải đời
Bỗng dưng, khuya ép nỗi sầu khơi
Cờ phành ba sắc; giông rền nổ
Kẹp theo roi cặp; chó rụng rời
Đường núi vạn trùng băng kiệu Ngự
Lòng tôi một quyết hướng sân Người
Đúng sai xin gửi ngàn thu xét
Bên nước bên vua, đâu nặng vơi?


LƯƠNG AN
dịch thơ
(bản biên soạn)

Chính hai chữ “nhất dạng” (hoặc “bất nhị”) đã quyết định các chữ sai biệt ở các dị bản (do truyền khẩu). “Nhất dạng” hoặc “bất nhị”, không có dị bản nào có hai chữ nào khác. Vả lại, xét về từ loại, ngữ nghĩa, “nhất dạng” đối rất chỉnh với “vạn trùng”, và “bất nhị” vẫn đối lệch với “kỉ trùng”. Hơn nữa, cũng không nên lặp lại chữ “kỉ” vì đã có “kỉ kinh”.

Bối cảnh lịch sử cũng là cơ sở cho việc mạo muội hiệu đính, khảo dị, nhằm xác định đúng bản gốc, nguyên tác của ông (xin xem bài viết “Nguyễn Văn Tường (1824-1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05 tháng 7.1885” [“Vài chủ điểm sử học sơ lược cần thiết khi cảm nhận bài “Giải Triều …””]).
Sau khi cân nhắc, thấy bản chính thức, theo chỗ chúng tôi biết, là hợp lí và phổ biến hơn cả.

Hai câu bổ sung:
CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH...

U trung thùy bạch thiên thu hậu? (*d)
Xã tắc quân dân thục trọng khinh?


Lòng trung sâu kín, tĩnh lặng, ai tỏ rõ [cho] cái mai
sau [có tính] nghìn thu?
Tổ Quốc, đức vua, nhân dân, đâu [là lẽ] nặng,
đâu [là lẽ] nhẹ?

Hai câu bổ sung của bài
“ TAN TÁC TRIỀU ĐÌNH...”

Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ?
Tổ Quốc, dân, vua, đâu trọng, khinh?


(bản biên soạn)

Đó là hai câu sửa chữa? Hoặc là hai câu thuộc bài khác? Theo ông Nguyễn Xuân Quế (hậu duệ Nguyễn Văn Tường), cuối bài “Giải triều...”, có một câu chú thích thêm với nội dung như trên cùng với hai chữ “Mạnh Tử”, ý muốn nhắc đến câu kinh điển của Nho giáo: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý, đất nước là thứ nhì, nhà vua chỉ đáng xem nhẹ). Có lẽ chính là hai dòng thơ này.


Cước chú của bài thơ số 3 (Giải triều…), thuộc Phần thứ II (các sáng tác ngoài thi tập):

(*a) Tắc (?) [còn đọc là "tái"]: đất biên ải (TĐHV., sđd., tập hạ, tr. 223 và 239; viết giống nhau nhưng tùy theo cách đọc mà có nghĩa khác nhau). Đúng ra, theo Phan Trần Chúc, là "sắc", nhưng bị sai lỗi in ấn. Còn chữ "thương" (lo nghĩ) phải đối với chữ "luyến" (thương mến không nỡ rời bỏ) mới thật chỉnh – tương ứng, bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Về chữ "thương", xin xem ở hai bài thơ, số 45 và 47 (“Ưng thương tích biệt li”; và “Chi thương vãng sự hải tang di”).

(*b) Xin xem phần chú thích ở bản dịch dưới dạng thơ.

Sau bài này, chúng tôi chủ yếu đặt các chú thích dưới bản dịch nghĩa. Tuy vậy, hầu hết bản biên soạn dịch thơ (khoảng 45 bài đầu) và bản dịch thơ (khoảng 21 bài sau) đều có thêm tiểu mục CHÚ THÍCH DỊCH THƠ, bởi chúng tôi vẫn xem bản dịch thơ phải đi đôi với bản dịch nghĩa. Vả lại, mặc dù chú thích ở bản dịch thơ (hay “bản biên soạn” dịch thơ) chỉ dành cho việc chuyển lại ngôn ngữ thơ, nhưng trong quá trình thực hiện khâu cuối, lại nảy sinh yêu cầu chú thích thêm cho bản dịch nghĩa. Tất nhiên chúng tôi hết sức cố gắng để mỗi tiểu mục đảm nhiệm đúng chức năng của nó (tiểu mục nào ra tiểu mục ấy). Xin vui lòng xem chú thích ở cả hai.

(*c) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244: “ … thù ghét [giặc Pháp – nbs. chua thêm (:ct.)], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay [04 – 05. 7. 1885 – nbs. ct.]…”.

(*d) U: vắng vẻ, yên lặng; sâu kín. Trung: hết lòng với người; hết lòng với nước. (Xem Đào Duy Anh, Từ điển Hán - Việt, sđd., tập hạ, tr. 506, 520).






THƯỢNG ĐỒ TRÌNH, CẢM TÁC ĐỐI LIÊN



4

THƯỢNG ĐỒ TRÌNH, CẢM TÁC ĐỐI LIÊN (1)

Tây trư tựu trở bì do xích
Nam giáng li chi quả vị hàm!


TRÊN ĐƯỜNG LƯU ĐÀY, CẢM TÁC CÂU ĐỐI (1)

Con lợn (2) [nước] Pháp lao [đầu] vào thớt,
da do đó [bị cạo] trụi
Sắc đỏ (3) [cõi] Nam rời [cuống] khỏi cành,
quả [: kết quả] vẫn chưa [được chín
/ khởi nghĩa] đều [đều khắp]! (4)

TRÊN ĐƯỜNG LƯU ĐÀY, CẢM TÁC CÂU ĐỐI

Tây heo lao thớt, da nên trụi
Nam đỏ lìa cành, quả chửa đều!

Lao thớt, lợn Tây da phải trụi
Rời cành, măng Việt trái còn hườm!


TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ

(1) Đầu đề chúng tôi mạo muội đặt. Tư liệu chép từ “Lô Giang tiểu sử” của Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (1858 - 1945), một vị quan triều Nguyễn (bản quốc ngữ chép tay)...

(2), (3) Để đối với chữ “giáng”, quen nói tắt từ hai chữ “giáng châu”, là chữ “trư”, nói tắt từ hai chữ “trư tử” (xin xem TĐHV., sđd., tr. 511). Như thế câu đối mới thật chỉnh. Ở bản dịch nghĩa, lẽ ra phải dịch “giáng châu” theo nghĩa: viên ngọc đỏ (nghĩa đen), quả tim đỏ (nghĩa bóng), bởi “măng cụt” chỉ là ẩn dụ cụ thể hóa, cái gợi liên tưởng trực tiếp, nếu “giáng” là “giáng châu”. Còn “trư tử”, nguyên nghĩa là “con người có tính lợn (heo)”, bởi chữ “tử” được dùng để chỉ người, không phải để chỉ vật. Ngoài từ “trư tử”, còn có một vài từ tương tự, như “trư cẩu đẳng”, “trư trạng nguyên”. TĐHV., sđd., còn liệt kê thêm ở mục từ “trư” này: “trư linh” (nấm lợn), “trư bà long” (rùa lớn có dáng hoặc đặc điểm nào đó như loài heo)... Tuy nhiên, chúng tôi vẫn dịch như nguyên văn, không phỏng đoán gì thêm. Tự thân danh từ “giáng” (sắc đỏ) đã đối khá chỉnh với danh từ “trư” (con lợn, con heo) và cả hai đều được khu biệt ngữ nghĩa bởi chữ “bì” (da), chữ “quả” (trái cây), bởi tứ của chỉnh thể câu đối gồm hai vế đối. Nói rõ hơn, nếu xem câu đối ấy là khá chỉnh, chỉ bởi hai chữ “trư”, “giáng”, thì phải chăng, tác giả cố tình tạo ra một độ chênh cho phép, nhằm gợi suy nghĩ (“trư” là tiếng chỉ loài giống; “giáng” là tiếng chỉ phẩm chất, thuộc tính; đều thuộc từ loại danh từ, trong cách sử dụng, ở vị trí ngữ pháp của mỗi vế đối). Như thế, cả hai đều trở thành nhãn tự, thu hút sự chú mục của người đọc, đồng thời gợi nên cái gườm mắt đầy bi phẫn, bộc lộ thần thái bên trong, sâu kín và rất bản chất, của chỉnh thể nghệ thuật câu đối, chứa đựng trọn vẹn một tứ thơ của tác giả. Và cũng bởi thế, câu đối (dạng hai câu song thất) trên, hoặc là khá chỉnh, hoặc là quá chỉnh, chứ không thể chỉnh một cách bình thường.

Rõ ràng chữ “trư”, nhà thơ, nhà chính trị Nguyễn Văn Tường sử dụng nhằm chỉ đích danh bọn Tây thực dân hoặc bọn mã tà, ma ní, nói chung là kẻ thù trực tiếp: bọn Tây dương (Pháp, Tây Ban Nha...), chủ yếu là Pháp.

(4) Về mặt nội dung của cặp câu đối song thất, chúng tôi cho rằng, lúc ghé Gia Định, trước khi bị tiếp tục cuộc lưu đày ra Côn Đảo, sang Tahiti, nhà thơ, nhà chính trị Nguyễn Văn Tường vẫn không nguôi tâm trạng nhớ về cuộc Kinh đô Quật khởi (05.7. 1885, 23.5. Ất dậu). “Trư” và “giáng” ở Gia Định đã gợi cho ông liên tưởng về sự kiện lịch sử ấy. Đôi câu đối còn phản ánh niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của dân tộc ta, của các dân tộc Á – Phi – Mỹ la tinh trước sự xâm lược cuồng bạo của thực dân Âu – Bắc Mỹ thời giẫy chết của chủ nghĩa tư bản cướp bóc. Với ông, ông tin vào sự chiến thắng tất yếu của Việt Nam, như dân tộc ta đã từng chiến thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, đế quốc vô địch thế giới thế kỉ XIII, như đã bao lần chiến thắng quân Nam Hán, Tống, Minh, Thanh... (Trung Hoa). Sự thắng lợi, dưới tài lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Bác Hồ, Lê Duẩn (*) và với tài quân sự của Võ Nguyên Giáp, đã chứng tỏ niềm tin ấy của Nguyễn Văn Tường: Đúng là Pháp, Mỹ, kể cả Nhật Bản (châu Á), đã bị Cách mạng Tháng tám 1945, Điện Biên Phủ 1954, Mậu thân 1968, Ất mão 1975 “cạo trụi”, không còn manh giáp.

Về mặt hình thức thể loại, theo lời nhà thơ Lương An, đó là cặp câu đối. Câu đối tất nhiên không có đầu đề và dùng để treo trong nhà, đình, chùa, công đường. Tuy nhiên, thường thường các cảm xúc, suy tưởng, nhất là trên đường đi, các nhà thơ vẫn quen thể hiện bằng những thể thơ, thể văn khác, nếu không muốn treo ở nhà như cách treo hai vế câu đối thường thấy. Vả lại, dạng câu đối song thất, về mặt hình thức, chỉ là hai câu thực hoặc luận của thể thất ngôn bát cú Đường luật, tuy có điều, câu đối song thất phải chuyên chở một tứ thơ (văn) trọn vẹn để trở thành một chỉnh thể tác phẩm. Đó là dạng haiku có đối. Hẳn Nguyễn Văn Tường muốn bày tỏ công khai, bằng cách gửi về treo ở nhà, nên đã sử dụng thể câu đối như vậy. (Về thể câu đối, xin xem Từ điển văn học, tập 1, Nxb. KHXH., 1985, tr. 111).

Bị chú: Nhà thơ Lương An cho chúng tôi biết, có một bản như sau:

Tây trư tựu trở bì do xích
Nam giáng li chi quả vị hoàng


Và ông đã tạm dịch:

Heo Tây lên thớt da còn đỏ
Măng cụt rời cây trái chửa và
ng

Trong thực tế, trái măng cụt còn gọi là giáng châu, hoặc hai chữ “măng cụt” được gọi tắt là “măng”, trái măng. Trái măng lúc còn non (mới kết trái), có màu vàng nhạt. Lúc đã lớn, chín, trái măng lại có màu nâu sẫm hơi ửng đỏ (màu đỏ tía, nâu tía). “Nam giáng li chi quả vị hoàng”: quả măng cụt phương Nam [nước Nam] rời cành vẫn chưa vàng, tức là còn rất non, chỉ mới có nụ quả.

Heo Tây lên thớt da nên đỏ
Măng Việt lìa nhánh trái chửa vàng.


hoặc:

Heo Tây lao thớt da nên trụi
Măng Việt lìa nhánh trái chửa vàng.


Nhà thơ Lương An cũng nói, chữ “hàm” (đều khắp), trong ngữ cảnh, như ở trang trước (sách này) đã chép (**) (chưa chín đều, mới chín rám, đang chín hườm), hẳn đúng hơn và đúng với các nghĩa (nghĩa đen, nghĩa bóng).

Chúng tôi thấy, ở bản này, có lẽ Nguyễn Văn Tường dùng ẩn dụ “Nam giáng” – “vị hoàng” để chỉ vua Hàm Nghi (7. 1885, mới 14 tuổi). Người ta cũng thường nói “quả tim đỏ”, “quả tim vàng” (đan tâm, kim tâm)... Đó chỉ là hình ảnh tượng trưng, không phải tả thực.

Tuy nhiên, chữ “hàm” đa nghĩa, phong phú hơn.



Cước chú của bài số 4 (Thượng đồ trình…), thuộc Phần thứ II (các sáng tác ngoài thi tập):

(*) Nhân vật kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 130 năm là Lê Duẩn (tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, 1960 – 1985), được sinh ra tại làng Hậu Kiên, nguyên quán làng Bích La Đông, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Cam Lộ cũng là “thủ đô kháng chiến” thời chống Mỹ: nơi đóng Cơ quan Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam!

(**) Nhờ gia đình họa sĩ Lê Ký Thương – chị Nguyễn Thị Kim Quy, chúng tôi đã đối chiếu với bản gốc cuốn "Lô Giang tiểu sử" của phó bảng Nguyễn Văn Mại (Nguyễn Hy Xước dịch, ruột ronéo, bìa typo, 242 + 30 tr., in xong ngày 07.6.1961). Ở cuối trang 38, sđd., nguyên văn như sau:

"Trong kinh lúc ấy mới yên, mà Nam Bắc bắt đầu khởi nghĩa. Ông Nguyễn Văn Tường tới Gia Định có ngâm câu tuyệt cú rằng:
TÂY TRƯ TỰU TRỞ BÌ DO XÍCH
NAM GIÁNG LI CHI QUẢ VỊ HOÀNG".


Hai câu trên được phụ đề chữ Hán. So với bản đã chép, thấy chỉ có hai dị biệt: "hoàng" / "hàm" và chữ "quả" có thêm bộ thảo (nghiêng hẳn về nghĩa là "trái cây").

Và như thế thì không thể hiểu “giáng” là “giáng trướng”, có nghĩa là bức trướng màu đỏ, tức chỉ chỗ ngồi dạy học ở triều cung khi vua còn nhỏ (kinh diên), như vua Hàm Nghi vốn đang học. Nguyễn Văn Tường cũng là kinh diên giảng quan.

(Về hai chữ “giáng trướng”, xem chú thích của Viện Sử học: ĐNTL.CB., tập 28, sđd., tr. 32).

5

Phụ lục:
Thơ PHẠM PHÚ THỨ và NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
về NGUYỄN VĂN TƯỜNG...


BẮC HÀNH CHU QUÁ BAO VINH KÌ VĨ BÁ BIỆT NGHIỆP, THÍCH TUYÊN PHONG LỄ THÀNH, THƯ HẠ NHÂN TỰ BIỆT – NGUYỄN BÁ, HÚY VĂN TƯỜNG, TIỀN SUNG TOÀN QUYỀN ĐẠI THẦN, ĐỒNG DƯƠNG PHÁI VÃNG BẮC KÌ, NHẬN HỒI TỨ TỈNH

Bang quốc chung xương vận
Giang sơn xuất vĩ nhân
Kinh trần bài đại nạn
Mĩ dự bá chư lân
Thế thưởng luận công mậu
Dương sinh sức hỉ tân
Phương thành xuân sắc cận
Yến tập cựu tình chân
Lang miếu trù duy thiết
Giang hồ ngụ mị tần
Du nhiên chinh lỗ ý
Mai nguyệt trầm hà tân.


PHẠM PHÚ THỨ
(1820 - 1883)

THUYỀN ĐI RA BẮC KÌ, NGANG QUA VƯỜN NHÀ RIÊNG CỦA KÌ VĨ BÁ (1) Ở BAO VINH, VỪA GẶP LỄ TUYÊN PHONG XONG, VIẾT THƯ MỪNG, NHÂN KỂ NỖI BIỆT LI – BÁ TƯỚC NGUYỄN, TÊN HÚY LÀ VĂN TƯỜNG, TRƯỚC ĐÓ SUNG CHỨC TOÀN QUYỀN ĐẠI THẦN, CÙNG PHÁI VIÊN TÂY DƯƠNG (PHÁP) ĐI BẮC KÌ NHẬN LẠI BỐN TỈNH

Nước nhà chung đúc vận tốt lành
Núi sông xuất ra bậc vĩ nhân
Bụi chiến tranh đáng kinh hãi,
nên đã xua đuổi được nạn lớn [ấy]
Danh dự tốt được truyền bá
ở các nước láng giềng
Đời khen thưởng bàn luận công lao dồi dào
Mùa xuân khí dương sinh trở lại,
mình có nỗi kính vui mới
Ở phương thành sắc mùa xuân gần kề (*)
Tụ tập lại yến tiệc với tình xưa chân thật
Triều đình trù tính rất thiết tha
Lúc giang hồ mình khi thức khi ngủ
Thuyền chèo đi xa với ý xa xôi
Mặt trăng trên cành mai
như chìm xuống bờ sông.

PHẠM PHÚ HẠT
dịch nghĩa

(1) Xem R. Morineau, Hội Truyền giáo Paris, “Bao Vinh, thương cảng Huế”, NNBCĐH. (BAVH., 1916), sđd., tập 3, tr. 211.

Vận nước thật tốt lành
Núi sông hiện vĩ nhân
Bụi chiến! Trừ tai họa!
Danh người thơm lân bang
Đời luận khen công lớn
Khí dương nỗi vui tràn
Sắc xuân quanh thành phượng [ngát?]
Bạn cũ tiệc ân cần
Triều miếu việc chu tất
Thuyền ta trôi trường giang
Càng xa thêm rộng ý
Cành mai chìm ánh trăng.


Hạo Nhiên
NGUYỄN MẠNH HÀO
dịch thơ

Đất nước vun nên vận sáng
Núi sông xuất hiện vĩ nhân
Đời lo xua từng nạn lớn
Tiếng tốt vang các lân bang
Nhân gian luận khen công đẹp
Khí dương vui thắp chồi xuân
Danh thơm xây mùa thắm thiết
Tiệc nồng họp tình thật thân
Kế nghĩ Triều đình sâu khắc
Giấc trọ giang hồ vội tàn
Ý mái chèo xa, rong ruổi
Bờ sông mai nở chìm trăng.


(bản biên soạn)

Đó là bài thơ của Phạm Phú Thứ viết để ca ngợi Nguyễn Văn Tường về chiến công ngoại giao, đàm phán, 1873 - 1875. Tuy nhiên, với Nguyễn Văn Tường, ông đã tự chế giễu: “Bởi kẻ bề tôi bất tài, nên mới giảng nói việc chiến hòa của ba nước; chỉ nhà vua với mệnh lệnh sẵn có, cam đành dằn xóc chốn núi biển bảy năm”. Nguyễn Văn Tường dù được công nhận là vĩ nhân, kì vĩ, tài trí, giỏi ứng đối và rành rõi trong giao thiệp, vẫn thật lòng không chấp nhận một “hòa” ước, thực chất là nhượng ước, hàng ước nào cả, nên lời khen của Phạm Phú Thứ chỉ đúng ở một phần nào. Đó là năng lực cá nhân trong việc vận dụng sắc lệnh của nhà vua mà bất kì kẻ bề tôi nào cũng không dám kháng chỉ.

Delvaux, trong bài viết “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, NNBCĐH. (BAVH., 1916), tập 3, sđd., tr. 36, đã kể về Philastre: “chẳng mấy chốc dần dần chịu ảnh hưởng của ông bộ trưởng đối ngoại, và nhất là ông Nguyễn Văn Tường trong khi ông Philastre làm phiên dịch chính thức ở Sài Gòn cho ông Tường và ông Tường là phó lãnh sự”. Đó là với phái bộ Lê Tuấn. Và khi với Nguyễn Văn Tường ở Bắc Kì, tr. 36 - 37: “Bản thân ông Philastre, như ông đã nhiều lần bày tỏ lúc còn ở Bắc Kì, là thật tình ông không tán thành về ý kiến đặt nền bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Ông cho đó là nguồn gốc của một thất bại và tai hại. Nước Annam, theo ý ông, không cần đến sự giúp đỡ tốt [!] của chúng ta và đây là một tội ác về vi phạm nhân đạo, bóp chết một nền văn hóa lâu đời và đáng trọng này. Tôi không trách ông Philastre về những sự mến chuộng của ông đối với nền văn minh này và tôi xin nghiêng mình cảm phục về tính năng động và trình độ hiểu biết của ông; nhưng tôi cũng nghĩ rằng tốt hơn là ông đừng nhận cái trọng trách kinh khủng là làm đại diện và bênh vực quyền lợi của nước Pháp bên cạnh Triều đình Huế. Cách suy tư của ông Philastre đúng là chỉ để khuyến khích vua Annam nối lại quan hệ chư hầu [!] giữa Annam và Trung Hoa và chẳng thèm đếm xỉa gì đến hiệp ước 1874. Như vậy chính phủ Annam vừa kêu cứu nước Pháp đánh dẹp bọn cướp nước người Hoa (tháng 12. 1878), lại vừa yêu cầu sự giúp đỡ của hai tổng đốc Lưỡng Quảng cùng trong mục đích đó”.

Dùng từ và phiên dịch đúng hơn, thì Lê Tuấn là chánh sứ và Nguyễn Văn Tường là phó sứ; suốt bảy năm sau đó (1874 - 1881), Nguyễn Văn Tường là thượng thư Bộ Hình, rồi thượng thư Bộ Hộ, kiêm quản lí thương Bạc sự vụ (“quan Thương Bạc”, “thượng thư ngoại giao” là cách gọi không chính xác). Do sự khập khiễng giữa danh từ tiếng Việt và tiếng Pháp, bởi sự khác biệt về tổ chức hành chính (chính quyền), xin gạt qua vấn đề danh xưng quan chức. Và cũng gạt qua cả nhận định về quan hệ Việt Nam – Trung Hoa theo quan niệm “thiên triều – chư hầu” vốn chỉ là hình thức, hình thức yếu hèn của thời xa xưa. Ở đây chúng tôi trích dẫn đoạn văn trên của Delvaux để khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt của Nguyễn Văn Tường trong cuộc đấu tranh chính trị, ngoại giao với thực dân Pháp. Chiến công ngoại giao, chính trị này của Nguyễn Văn Tường, trước hết và có ý nghĩa sâu sắc nhất là, trong đó, có chiến thắng văn hóa. Philastre cũng là một nhà ngôn ngữ học, Phương Đông học, Việt Nam học, là một tên thực dân có học vấn và có trái tim nhân bản (trong chừng mức nào đó). Chính Nguyễn Văn Tường đã tâm công, đánh thức lương tri của y bằng văn hóa Việt, tạo điều kiện cho y được học hỏi văn hóa Việt (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 352).

Nguyễn Văn Tường được gọi là vĩ nhân, được tôn xưng là vị bá tước kì vĩ, chính là ở điểm này.

Trong sự ngợi ca Nguyễn Văn Tường của Phạm Phú Thứ, ở bài thơ trên, chúng tôi thấy có sự chiến bại khá văn hóa, khá nhân bản của trái tim thực dân dẫu sao cũng vẫn còn chất người của Philastre, ở một mức nhất định. Và dẫu sao thì Philastre vẫn còn là một tên xâm lược có cái nhìn (nhãn quan) kinh tế méo mó và thủ lợi mang tính thực dân, bất chấp sự chết đói của dân bản xứ (xem Y. Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 116 - 122 và 279 - 281; ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 8 - 10).

Ở cuối phần này của cuốn sách, chúng tôi đã trích thêm bài thơ trên của Phạm Phú Thứ trong bài viết của ông Hạo Nhiên Nguyễn [Tôn Thất] Mạnh Hào (*), với bản dịch nghĩa của ông Phạm Phú Hạt, bản dịch thơ của ông Hạo Nhiên.


Cước chú của bài thơ số 1 (Bắc hành chu quá Bao Vinh… của Phạm Phú Thứ), thuộc Phần thứ II (Phụ lục):

(*) Hương thơm xây đắp nên sắc mùa xuân gần gũi.
“Phương thành” đối với “yến tập”?

(*) Xem KYHNKH. ĐHSP. TP. HCM., 20. 6. 1996, tr. 85 - 98. Đây là một bài viết cảm động, tuy nhiên có vài điểm chúng tôi không thể đồng ý. Điểm nổi cộm nhất là, biện minh cho Ngô Đình Diệm, tổng thống ngụy, kẻ có "lòng yêu nước" theo kiểu của một tên nô lệ, vốn là tay sai của La Mã, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (cũng như Dương Văn Minh (*1), Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, cùng tất thảy các tướng lĩnh, chính khách khác sau này, mặc dù giữa các kẻ ấy có sự khác biệt ít nhiều (*2)). Điểm khác, là Nguyễn Văn Tường vốn có họ Nguyễn Phước (con rơi của Thiệu Trị)! Điểm này chỉ là tương truyền. Xin xem chú thích (1), (2), (4) bản dịch nghĩa bài thơ số 14.

(*1) Dương Văn Minh, đại tướng ngụy (“Big” Minh), tổng thống cuối cùng (nhậm chức trong khoảng vài ngày cuối) của chế độ ngụy Sài Gòn. “Big” Minh đã đầu hàng trước sự tấn công của quân Cách mạng vào ngày 30.04.1975, ngày kết thúc cuộc chiến tranh 117 năm. Nếu tính từ ngày kinh đô Huế thất thủ đến ngày giải phóng Sài Gòn, là chín mươi năm (1885 - 1975)!

(*2) Xem thêm: Linh mục Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, nguyên tác tiếng Pháp, linh mục Vương Đình Bích dịch, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 100 – 146…

Để rõ hơn chân dung của người xưa – nhân vật lịch sử – xin phép được trích thêm ở một cuốn sách khác: thơ Nguyễn Thượng Hiền.

[VÔ ĐỀ]

Huyền vũ lâu tiền mãn địa sương
Dũ phong đình nguyệt thái thê lương
Sơn xuyên cố quốc âm tình cải
Nhung mã toàn gia đạo lộ trường
Không quá Tây môn bi thái phó
Thùy tòng Bắc hải vấn trung lang
Ngu uyên thử nhật vô tiêu tức
Trường đoạn thanh khê bích ngẫu hương.


Mai Sơn
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
(1868 - 1925)

[KHÔNG ĐỀ]

Huyền Vũ lầu không đặc lớp sương
Trăng sân gió cửa quá thê lương
Non sông cố quốc bao thay đổi
Gươm ngựa toàn gia vạn dặm trường
Không đến cửa Tây thương thái phó
Ai về biển Bắc hỏi trung lang
Tìm trời đáy biển không tin tức
Đứt ruột sen khe lộ ngó hương.


Chu Thiên
HOÀNG MINH GIÁM
(1904 - 1995)
dịch thơ

[KHÔNG ĐỀ]

Trước lầu Huyền Vũ, đầy đặc [trên] đất [là] sương
Gió [lùa qua] cửa sổ, trăng [chiếu rải ngoài] sân,
quá đỗi thê lương!
Sông núi nước cũ (: triều đại cũ, trước 05. 7. 1885),
giọng tiếng [và] lòng dạ đã biến đổi
[Cùng] binh lính, [vó] ngựa, cả gia đình [trên] đường sá
[với] lối nẻo [đang mở rộng, kéo ra] dài dặc (1)
Cái hư không (: Trời) đến cửa Tây, khóc không
để lộ nước mắt (khóc thầm) cho thái phó (2)
Ai giúp giùm biển Bắc (3), [xin] hỏi viên quan lang
(: quan nguồn) [đồng bào Thượng ở thượng nguồn
vốn có lòng] trung thành (*)
Phương lặn mặt trời rực [nắng] ngày, tin tức vắng bặt
Ruột đứt, khe nước trong xanh, xanh biếc ngó
[ý, với tơ lòng, hương] sen thơm ngát (4).

(1) Tôn Thất Thuyết, khi Nguyễn Văn Tường bị bắt, không còn hậu thuẫn, đã phải sai lầm qua Tàu cầu viện!

(2) Nguyễn Văn Tường. Câu này có thể hiểu đúng hơn: “Cái hư không (cái vô vi) sai lầm [ở] cửa [giặc] Pháp, [khiến tôi phải] thương xót thái phó”.

Chữ “bi”, theo HVTĐ. của Thiều Chửu, sđd., tr. 204: “đau, khóc không có nước mắt, gọi là bi”, và “thương xót” (từ bi). Một vài chữ “bi” trong thơ Nguyễn Du:
Đỗ vũ [nhất] thanh [xuân] khứ hĩ

Hồn hề quy lai bi cố hương!
Một tiếng chim cuốc, xuân đã qua
Hồn ơi về đi, thương quê xa [:quê cũ]

(Ngẫu thư công quán bích,
Nam Trung tạp ngâm)

Cộng tiễn thi danh sư bách thế
Độc bi dị vực kí cô phần
Mọi người khen danh thơ, [làm thầy]
dạy trăm đời
Riêng tôi thương xứ lạ, gửi [nấm] mộ côi
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ,
Bắc hành tạp lục)

Xem thêm: Nguyễn Du toàn tập, tập I, Mai Quốc Liên và nhóm cộng tác viên biên dịch, Nxb. Văn Học, 1996, tr. 201 - 203, 397 - 398).

(3) Phạm Thận Duật đã phò vua Hàm Nghi lên Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) và đã “phụng Bắc sai”, ra Bắc tổ chức cần vương. Khi theo sông để ra đường biển, có lẽ ông bị chỉ điểm, nên giặc Pháp đã bắt được ông. Có kẻ bôi nhọ ông đã đào ngũ! Tuy nhiên cũng cần phải khách quan trong nhận định. Nếu có sự so sánh giữa ba nhân vật Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, vẫn thấy rằng: Phạm Thận Duật không hề bị De Courcy, De Champeaux, Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ tước đoạt chức hàm và cũng không bị tịch biên gia sản, trong lần kết án chung thẩm (*).

(4) Hai câu kết đã làm sáng rõ tứ thơ. Tác giả đang đau xót ngóng trông nhưng vẫn vắng bặt tin tức từ phương mặt trời lặn (Phương Tây, chỉ Pháp; núi rừng phía biên giới Việt Lào). Bấy giờ, người ta chỉ biết Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính bị giặc xâm lược Phú Lãng Sa lưu đày qua nước của chúng, đâu ngờ chúng đày tận Tahiti!... Vì Tôn Thất Thuyết vẫn còn ở trong nước, còn biết tin tức qua các sơn phòng, nên câu này chỉ hướng đến ba người bị lưu đày (*). Hoàng Minh Giám đã dịch theo ý tưởng đó (“Tìm trời đáy biển...”).

Phạm Thận Duật rồi đến Nguyễn Văn Tường đã nối nhau qua đời, trong khoảng thời gian chưa đầy một năm. Chắc hẳn thực dân Pháp đã tra tấn rất tàn khốc hai đại thần Cơ mật viện này. Tôn Thất Đính, lớn tuổi hơn, già lão hơn, lại không phải là đại thần, không nắm được bí mật quốc gia và triều đình, nên đã được phóng thích về nước.

Tác giả là con rể của Tôn Thất Thuyết, đồng thời cũng con rể Tôn Thất Phan (cưới hai người vợ một lần!). Ông không tham gia kháng chiến trong phong trào Cần vương. Về sau, khi đã khắc phục được hạn chế về quyết tâm kháng chiến, Nguyễn Thượng Hiền có tham gia phong trào Đông du, Duy tân với những hoạt động yêu nước, chống Pháp. Lúc Phan Bội Châu bị bắt, bị an trí tại Huế (1925), lại có người cháu ruột của mình phản bội, ông buồn bã, mang bệnh rồi mất trong lớp áo nâu sồng tại một ngôi chùa ở Hàng Châu, Trung Hoa.

[KHÔNG ĐỀ]

Huyền Vũ trước lầu đất ngập sương
Trăng sân gió cửa quá thê lương
Núi sông nước cũ lòng thay giọng!
Gươm ngựa toàn nhà nẻo mở đường
“Vô” sái cửa Tây, thương thái phó
Ai xuôi biển Bắc, hỏi quan nguồn
Rực ngày phương lặn không tin tức
Ruột đứt khe xanh, biếc ngó hương.


(bản biên soạn)

Cuối phần này của cuốn sách, chúng tôi đã trích thêm một bài thơ của Nguyễn Thượng Hiền – người chứng trẻ tuổi đương thời, sinh năm 1868 – để làm sáng tỏ thêm về Nguyễn Văn Tường và hai đồng chí của thái phó: Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật, và cả ông nội vợ của Nguyễn Thượng Hiền: Tôn Thất Đính.


Cước chú của bài thơ số 2 (Vô đề… của Nguyễn Thượng Hiền), thuộc Phần thứ II (Phụ lục ):

(*) Bản dịch của Hoàng Minh Giám vẫn để nguyên hai chữ “trung lang”. Nếu khác mặt chữ, có lẽ đó là một điạ danh: làng Trung Lương ở ven bờ sông Bến Hải, nơi Phạm Thận Duật xuôi từ thượng nguồn về và bị Pháp bắt ở nhà của Trần Đình Túc (Hà Trung, Gio Linh, Quảng Trị), gần bến sông ấy. Nhưng “trung lang” với nghĩa viên quan nguồn trung thành, đối chỉnh với “thái phó” hơn?

(*) Nguyễn Văn Tường bị lưu đày đến Tahiti và qua đời sau sáu tháng tại hòn đảo đó, vào ngày 30. 7. 1886. Phạm Thận Duật bị ốm, chết trên biển, phải thuỷ táng, sau ngày 05. 7. 1885 chỉ vài ba tháng. Tôn Thất Đính và Tôn Thất Thuyết lại may mắn hơn, nếu không kể hai người trẻ tuổi Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp đã hi sinh. Riêng Tôn Thất Thuyết, ông sống lưu vong đến 27 năm (1886 - 1913). Năm 1913, Tôn Thất Thuyết mất ở Long Châu (Trung Hoa), thọ 73 tuổi (1839 - 1913). Các nhân sĩ Trung Hoa phúng điếu ông:

Thù nhung bất cộng đới thiên,
vạn cổ phương danh lưu Tượng Quận;
Hộ giá biệt tầm tỉnh địa,
thiên niên tàn cốt kí Long Châu.

(Thù giặc không chung đội trời, vạn thuở tiếng thơm lưu Tượng Quận; Phò vua riêng tìm xét đất, nghìn năm xương mục gửi Long Châu).
Rất tiếc, trong đó, hai chữ “Tượng Quận” vẫn còn tính chất sô-vanh (chauvinisme)!



Hết phần 1
(từ tr. 1 đến tr. 209 [số trang bản in vi tính])

Xin xem tiếp phần 2
(từ tr. 210 đến tr. 483[số trang bản in vi tính]).

5. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886) -- THƠ -- VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI, TÂM HỒN & TƯ TƯỞNG / tệp 5

NGUYỄN VĂN TƯỜNG
&
THƠ CA



TẤC LÒNG YÊU NƯỚC SON SẮT
CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG...


Nnc. Trần Đại Vinh (*)



Trong số di cảo của Nguyễn Văn Tường, còn có 64 (1) bài thơ chữ Hán sáng tác từ năm 1869 đến năm 1876, đã thể hiện tấc lòng yêu nước, yêu dân chân thành của ông, một người trí thức chân chính gánh vác nhiều trọng trách trong hoàn cảnh gieo neo của đất nước.

Phần lớn số thơ đó được viết trong giai đoạn ông làm tán lí quân vụ ở các tỉnh biên giới miền Bắc.

Năm đầu tiến đến Lạng Sơn, ông đã xác định tình thế và nhiệm vụ:

Tuy nhiên lòng chó sói
Há để kề bên hông
Bọn ta thẹn ngồi không
Kẻ nào đáng hưởng lộc
Nguyện cùng nhau lo toan
May dân khỏi bức bách


Ông đã ước mơ tiêu diệt hết quân xâm lược, thu hồi nền thống nhất vẹn toàn Nam Bắc:

Diệt hết lũ cừ khôi
Khỏi ô uế bờ cõi
Dẹp loài tanh khác nòi
Nam Bắc cùng một mối

(Sơ đáo Lạng Sơn - dịch).

Ông đã cảm nhận nỗi điêu linh của nhân dân:

Bốn thành cỏ lúa sờn kêu khóc
(Họa thơ Từ Diên Húc).

Và đã khao khát chiến thắng:

Bao giờ sông núi ghi công đó
Chẳng phụ giang sơn mấy nỗi niềm

(Họa thơ Tri huyện An Dũng).

Năm năm lặn lội trên chiến trường tiễu phỉ giáp biên giới Việt Trung, ông còn lưu lại 44 bài thơ đau đáu một nỗi niềm lo cho dân cho nước.

Bài thơ “Bảy lần qua Xương Giang” như một tổng kết tình hình chiến trận gian nan và bế tắc:

Năm năm bảy lượt trẩy sông Xương
Cam chịu gian truân mấy đỗi đường
Cứu hiểm chẳng dành tàu chóng lướt
Lái cầm chưa định buồm ồn giương
Việc đời cuồn cuộn vời con nước
Bế tắc lòng tôi đọng tợ sương
Ngóng Bắc, triều đình hôm sớm đợi
Lô, Thao, trên ải nỡ đùa vờn?!


Đến khi trở về kinh, sung vào sứ bộ Lê Tuấn, đi Gia Định thương thuyết việc giao trả bốn thành Garnier vừa lấn chiếm, ông đã cảm hoài:

Bao năm ải Bắc cờ giong
Nay đi Tây sứ ngồi trong hỏa thuyền
Thương cho đường trước gập ghềnh
Đoái nhìn việc cũ bồng bềnh biển dâu
Giặc thì ỷ thói cuồng đâu
Quan triều ai đó có hầu thấy nguy
Không tài thẹn nỗi trọng vì
Bình sinh thơ đọc mắt ghi trăm bài...


(Họa bài Tàu thủy xuống cửa Thuận
của chánh sứ Lê Tuấn).

Ngang qua Tháp Bà Nha Trang, ông cũng ao ước:

Lục tỉnh nghìn năm về nước cũ
Cõi bờ thu lại chuyến Tây hành


Vào Gia Định, nhân đi xem Sở thú vừa mới thành lập, ông đã cảm xúc chua xót:

Vài chuồng thú lạ là tân vật
Nửa khoảnh chim hoa khác cựu phong
Đối cảnh đáng buồn ai đổi chủ
Gặp người khó nói hết nguồn cơn
Cớ sao tạo hóa còn đa sự
Luống để vườn hoa chép tiếp dòng!


Nỗi niềm trăn trở, dằn vặt đó không còn gì chân thành hơn, phải phát xuất từ một tâm hồn gắn bó sâu nặng với đất nước, với nhân dân và một sự nhận thức cao về trách nhiệm. Đó là tấc lòng mà Nguyễn Văn Tường gởi vào thiên cổ.

Thế nhưng, thơ chỉ bộc lộ nỗi niềm, chứ không thể trình bày sâu sắc nhận định sáng suốt của ông. Phải đọc tấu sớ tường trình lên vua mới thấy rõ tầm nhìn và nhận thức chính trị của ông.

Hãy xem một bài sớ, trước hết biểu lộ đức tính dũng cảm, trung thực, dám nói những điều có thể đụng chạm đến tự ái của vua. Bài sớ đề ngày 27 tháng 10 năm Tự Đức thứ 27 (1874) mở đầu viết:

“Kính, từ khi hoàng thượng nối tiếp cơ đồ lớn lao, vỗ yên vận sáng, tuy trì doanh bảo thái (**) chưa từng không lấy sự gắng gỏi làm nỗi lo toan; nhưng quá nửa ngày thì trời xế, ngược với sáng là tối, là lẽ tuần hoàn xưa nay thay đổi; cho nên trong thì biến loạn của anh em, ngoài thì cái họa của mọi rợ, Nam Kì đất cũ thì trầm luân, Bắc Kì thì giặc cướp liền năm”.

Một đoạn khác nói về tình hình quan lại:

“Nay các quan đương chức trong ngoài, tham nhũng hèn yếu vốn cũng có, nhưng người có tài lo liệu cũng chưa từng thiếu vậy. Kẻ gặp việc thì lo khéo tránh, ở quan mà vui làm việc riêng, đã được trích ra trừng trị răn dạy để sửa chữa thì cũng ít vậy. Thậm chí có kẻ tùy việc đòi hối lộ, như là chợ búa, thế mà lại không biết liêm sỉ. Than ôi, lòng người sao một phen đến thế”.

So sánh với người nước ngoài, ông nhận định:

“Thần thường tiếp người các nước Thanh, Tây. Họ há tất cả đều là siêu việt sao! Chỉ vì họ thì lấy điều thực mà làm, còn ta thì lấy điều hư để ứng phó. Lấy thực đối với hư, thì mạnh yếu đã phân định rõ”.

Từ đó ông đề nghị về chính sách dùng người:

“Kính mong hoàng thượng chọn người chân chính sung lo việc thuyên tuyển, khiến cho nắm lấy công bằng, tiến lui tất có ý (...). Mong hoàng thượng giữ vững quyền truất giáng để khích lệ người tài năng, để người người đều tận lực trong công việc. Nội trị được sửa đổi thì ngoại trị khá hưng, mới có thể thư được nỗi lo đêm ngày”.

Nói về mình, ông viết:

“Đến như thần đã không có tài khác, đường làm quan trắc trở, đã nhiều lần lạm dự vào ơn mưa móc không phải phận mình (2), mới có được ngày nay. Kính được sai làm sứ, thần nào dám tiếc tâm sức. Duy được thờ hoàng thượng trải hơn hai mươi năm nay, ở bên ngoài thì nhiều, chưa am hiểu chính thể. Nếu như ban ơn chỉ dụ cho ở tại kinh, hầu hạ bên cạnh, được nghe lời răn dạy, để cho thần mở óc ngu tối mà giảm bớt lỗi lầm, đợi lúc đến kì sai phái tới lui với Tây, tùy cơ thương thuyết để tiện lo cứu vãn, hoặc có thể đền đáp trọng trách trong muôn một. Ấy là nguyện vọng của thần vậy”.

Từ những công việc cấp thiết lo toan mở mang cho cư dân miền núi Cam Lộ suốt 8 (3) năm làm tri huyện, những việc hành chánh chuyên môn tại Quảng Nam, văn phòng Bộ Binh và Phủ Thừa Thiên, cho đến việc sung làm tán lí quân vụ, phải lao tâm khổ trí và xông pha trận mạc, khi thì thương thuyết giao hảo, phối hợp với quân tướng nhà Thanh, khi thì trực tiếp lặn lội trên chiến trường tiễu phỉ, rồi trải qua những lần đấu trí trong thương thuyết với sứ bộ Pháp, mong đem lại bình yên cho nhân dân, thu hồi tỉnh thành cho đất nước, kể cả việc tham gia làm phụ chính đại thần gặp lúc phải có những quyết định táo bạo, dứt khoát, Nguyễn Văn Tường đã chứng tỏ là một người giữ trọng trách có nhiệt huyết, thể hiện một tấm lòng vì dân vì nước sâu sắc.

Tuy nhiên tài ngoại giao của Nguyễn Văn Tường đã không đủ để cứu vãn tình thế. Vì tình hình đất nước từ sau khi kí hàng ước Quý mùi đã hoàn toàn bế tắc. Nam triều chỉ còn quản lí một cách hình thức phần lãnh thổ từ Khánh Hòa ra Đèo Ngang.

Mặc dù thế, cả Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vẫn hợp lực để gắng gỏi vớt vát. Nhưng khi chính phủ Pháp đã bổ nhiệm De Courcy làm tổng thống Trung Bắc Kì quân vụ, kiêm Trung Bắc Kì toàn quyền, và Le Maire bị áp lực phải từ chức, nhường cho De Champeaux thay thế làm khâm sứ Trung Kì, thì hơn ai hết Nguyễn Văn Tường đã thấy bế tắc hoàn toàn. Theo ông thời, thế, cơ đã không cho phép hành động tích cực. Biện pháp cuối cùng như ông phân trần trong bài sớ gửi Tam Cung chỉ là:

“Lấy mặt cười vui để đối phó bàn tay hung bạo, mở tấm chân thành để thông suốt đá cứng, tuy không thể lấy làm mạnh, mà chỉ có thể làm kế lâu dài” (4).

Nhận thức đó đã làm cho ông trở thành người đứng ngoài cuộc trong cuộc tấn kích quân Pháp đêm 22 - 23 tháng 5 Ất dậu, và tự động ở lại điều đình với Pháp. Đó là một sai lầm lớn của ông (4).

Chính vì sai lầm cuối cùng này mà tác giả dân gian trong “Vè Thất thủ kinh đô” đã không thể chấp nhận Nguyễn Văn Tường, đã xây dựng ông trở thành một nhân vật giảo hoạt, bề ngoài chủ chiến mà bên trong chỉ là cơ hội (5).

May mắn cho ông, [đúng hơn là cho sử học – nbs.], hình phạt đày đi Tahiti, cùng với Tôn Thất Đính, và Phạm Thận Duật đã là một minh chứng hiển nhiên cho lập trường yêu nước, bộc lộ rõ sự đánh giá cụ thể của kẻ thù về bản chất của ông.

Hơn một trăm năm đã trôi qua, ngày nay nhìn lại, có nơi có lúc cũng đã không thấy hết sự phức tạp của tình hình. “Hòa”, chiến đã từng là những trăn trở, dằn vặt của mấy thế hệ sĩ phu Việt Nam. Trong điều kiện đất nước thời ấy, cả hai đường lối ấy đều bế tắc. Lịch sử đã trôi qua, chỉ còn đọng lại là tấc lòng yêu nước son sắt của những con người chân chính. Dù chọn giải pháp nào, họ đều đứng trên vị trí những người thiết tha với vận nước. Những con người ấy đã dám làm, dám gánh trách nhiệm. Dù có lúc nhầm lẫn hoặc thất bại, vẫn sáng tỏ phẩm chất người yêu nước chân chính và tích cực (6).

T.Đ.V.

(Trích từ “Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập”, do Trần Viết Ngạc, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển sưu tầm, giới thiệu, phiên âm, dịch [mới 45 bài], tư liệu Hội nghị khoa học, 20. 6. 1996, do Trường ĐHSP. TP.HCM. chủ trì và ấn hành, từ tr. 09 đến tr. 13).


(*) Giảng viên ĐHSP. Huế, nhà nghiên cứu (nnc.) văn học.

(**) Trì doanh bảo thái: giữ sự thịnh vượng, tốt lành (chú thích của tác giả bài viết : ).

Tài liệu tham khảo: Di cảo Nguyễn Văn Tường (người viết dịch) [cước chú của TĐV., tác giả bài viết].


(1) Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh không tính hai bài phản đề được viết chữ cỡ nhỏ dạng đề từ ở nguyên tác chữ Hán. Xin xem chú thích (1) của bản dịch nghĩa bài thơ số 42, gồm cả bị chú [bổ sung cho chú thích (1)].

(2) Cách nói khiêm tốn thời phong kiến.

(3) Xin xem chú thích (1), ở bài viết của Vũ Đức Sao Biển.

(4) Đây chỉ là sách lược dành riêng cho Tam Cung và các quan lại chủ “hòa”, già yếu, thay vì đến “tị địa” Khiêm Lăng hay Tân Sở, trong khi đó, vẫn tiến hành kháng chiến vũ trang kết hợp với đấu tranh thương thuyết. Cuộc Kinh Đô Quật Khởi không tâu trước cho Tam Cung. Xin xem chủ điểm 3 của bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885” trong sách này.

(5) Xin xem chủ điểm 3 và chủ điểm 4, bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885” của Trần Xuân An (tức là bài “Vài chủ điểm sử học sơ lược cần thiết khi cảm nhận bài “Giải triều …””); chú thích (2), (3) của hai câu đối “Thượng đồ trình…”, và cả chú thích (7) của bản dịch nghĩa bài thơ số 27, đặc biệt là bị chú (*a) về vè “Thất thủ kinh đô”, “Thất thủ Thuận An'' của chú thích (7) ấy.

(6) Theo chúng tôi, chỉ có một con đường duy nhất đúng, đó là con đường Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật... chọn lựa. Chỉ một con đường, nhưng hai nhiêm vụ: kẻ đánh, người đàm, tạo sức mạnh cho nhau, cùng hướng đến một mục tiêu chung là đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc, gồm cả việc đập vỡ âm mưu bành trướng của nhà Thanh (Trung Hoa)... Xin lưu ý điểm này ở bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05.7.1885”.




ĐỌC THƠ NGUYỄN VĂN TƯỜNG

Nnc. Vũ Đức Sao Biển (*)


Khoảng cuối năm 1995, tôi được nhà giáo Trần Viết Ngạc đến mời tham gia báo cáo trong Hội nghị khoa học về Nhóm chủ chiến Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, do Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Nhà giáo Trần Viết Ngạc giao cho tôi một thủ bản thơ chữ Hán của Nguyễn Văn Tường gồm 50 bài thơ. Nhìn nét bút chân phương xương kính, tôi thật sự cảm xúc, biết mình đang cầm trong tay những bài thơ của một sĩ phu yêu nước. Vì thời giờ có hạn, tôi xin phép nhà giáo Trần Viết Ngạc được chọn lựa một số bài tiêu biểu để phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và phát biểu suy nghĩ trên cơ sở những bài tiêu biểu ấy. Tôi đọc thơ Nguyễn Văn Tường không phải bằng cái nhìn của một người nghiên cứu mà chỉ thuần túy bằng cái nhìn của người làm báo, và thỉnh thoảng làm thơ.

Trước tiên, tôi xin được khẳng định: Nguyễn Văn Tường là một nhà thơ đích thực với đầy đủ những yếu tính của khái niệm nhà thơ. Sau khi thi đỗ cử nhân năm 1850, triều Tự Đức, Nguyễn Văn Tường đã bước vào cuộc đời làm quan năm 1852. Ông đã làm quan ở huyện Thành Hóa (nay là Cam Lộ, Quảng Trị) trong 8 năm (1). Trở về kinh thành Huế, ông lần lượt giữ các chức viên ngoại lang Bộ Hình (1861), án sát Quảng Nam (1862), tá lí Bộ Binh (1863) và Thừa Thiên phủ doãn kiêm nhiệm khuyến nông sứ Thừa Thiên - Quảng Trị (1864). Năm 1866, do vụ khởi nghĩa của Đoàn Trưng, ông bị cách chức, sau đó được phục hàm biên tu, đưa về huyện Thành Hoá làm công tác mở mang miền núi. Khi loạn giặc Khách nổi lên ở vùng Đông Bắc, ông được cử ra Bắc làm tán lí quân vụ. Qua những biểu, tấu, chương gửi về báo cáo Triều đình Huế, Nguyễn Văn Tường đã tự chứng tỏ rằng ông là con người có kiến thức, có đởm lược về quân sự. Trong quan hệ đối ngoại, ông là một nhà ngoại giao cự phách, nhiều lần sang Long Châu, Trung Hoa gặp tướng Phùng Tử Tài để bàn việc phối hợp tiễu phỉ, trấn định biên giới. Năm 1873, trong vụ Jean Dupuis, ông lãnh chức phó sứ, cùng ông Lê Tuấn vào Sài Gòn thương thuyết với Pháp. Vua Tự Đức rất tín nhiệm ông sau việc kí với Philastre hai thỏa ước rút quân Pháp ra khỏi Bắc Kì, và hiệp ước năm 1874 với thống đốc Dupré. Sau hiệp ước 1874, Nguyễn Văn Tường được giữ chức thượng thư Bộ Hình, quản lí Thương bạc viện và sung vào Cơ mật viện. Ông trở thành trọng thần khả kính của triều Nguyễn.

Tôi phải trình bày sơ lược đôi nét về cuộc đời làm quan của Nguyễn Văn Tường để thấy được ông là một sĩ phu năng động, một nhà chiến lược quân sự, một nhà chiến lược chính trị, một nhà ngoại giao. Thực dân Pháp và những kẻ thỏa hiệp đã làm ca dao bôi nhọ, xuyên tạc về tài năng và con người của ông; có câu truyền mãi đến bây giờ khiến người đời sau hiểu sai về ông. Rõ ràng là vốn sống và sự cống hiến của ông cho lịch sử, cho Triều đình Huế rất lớn. Đi, sống, chiến đấu và viết là những yếu tố cơ bản hình thành tính cách nhà thơ của Nguyễn Văn Tường.

Thơ chính là người. Thơ ca Việt Nam thường có loại “thơ khẩu khí” biểu lộ khát vọng và tính cách riêng của từng người làm thơ. Nhà thơ Nguyễn Văn Tường cũng có riêng một khẩu khí cho mình vậy. Chúng ta nhớ rằng năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ông đã từng lấy tên là Nguyễn Phước Tường, đi thi hương và đậu tú tài lúc vừa tròn 18 tuổi. Vua Thiệu Trị khép tội ông mạo nhận hoàng tộc; ông bị hủy bằng cấp và chịu tội đồ 1 năm, suốt đời không được đi thi (2). Mãi đến 8 năm sau, ông mới được vua Tự Đức xóa cho cái án ấy. Điều gì thôi thúc ông muốn tiến nhanh trên hoạn lộ? Đó chính là tấm lòng của một sĩ phu muốn đem tài trí giúp đời, phục vụ cho Triều đình; tấm lòng của một nhà nho nhập thể và nhập thế. Tâm trạng ấy đã được thể hiện trong nhiều bài thơ tự bày tỏ khí tiết của Nguyễn Văn Tường.

Trong bài Miếu trung ngọa mộc (Cây nằm trong miếu), họa đáp lời ông tú tài họ Đặng (?) ở Bình Lâm, Nguyễn Văn Tường chỉ mong làm một cây xà nhỏ:

Bất tịnh quần tài giảo thốn trường
Chung phong na đắc phạ đồi đường
Cán trinh biệt hữu hiên ngang xứ
Khẳng tác nhân gia tiểu giác lương.


Tạm dịch là:

Chẳng muốn so đo chuyện ngắn dài
Sợ gì yếu ớt, gió lung lay
Có riêng gốc rễ, hiên ngang đứng
Xà nhỏ trong nhà cũng một cây.


Kẻ sĩ là cây tùng, cây bách giữa đời. Nguyễn Văn Tường cũng có quyền tự hào mình là một cây tùng như vậy. Ông có bài Tùng thụ (Cây tùng):

Tài bồi tự cụ lăng tiêu tháo
Ấm tí năng dung thụy thế cầm
Lương đống vị ngôn tha nhật dụng
Độc cao vũ lộ thụ thâm ân.


Tạm dịch là:

Tiết tháo ngang trời tự đắp vun
Tàng cây che chở các chim muông
Mai sau chưa nói nên rường cột
Mưa móc ơn sâu được thấm nhuần.


Nguyễn Văn Tường là một sĩ phu có bản sắc, có chí khí. Ông muốn “đem quách cả sở tồn làm sở dụng” như cách nói của Nguyễn Công Trứ ngày nào. Và rõ ràng là ông đã hiển đạt, đã thực hiện được sở nguyện.

Thế nhưng, sẽ không có thi ca nếu không có tâm hồn lãng mạn, tư duy lãng mạn. Bên cạnh một trọng thần Nguyễn Văn Tường, thượng thư Bộ Hình, còn có một nghệ sĩ Nguyễn Văn Tường say sưa với sông núi, mây, trời, trăng trong, gió mát. Bài Cung họa Ngự chế Đoan ngọ vãn phiếm chu hành hạnh Tư Hiền tấn (Kính họa bài thơ ngự chế “Chiều lễ đoan ngọ đi dạo ở cửa Tư Hiền”) có một đoạn rất nghệ sĩ, rõ ràng là bút pháp của một nhà thơ lãng mạn:

Tà dương thiên ngoại vân phong họa
Tân nguyệt giang đầu cảnh hạm minh
Chu tiếp tàm vô thương bật trợ
Thừa phong thượng kí phấn bằng trình


Tạm dịch là:

Chiều xuống bên trời mây núi vẽ
Trăng non đầu ngọn bóng thuyền lay
Thẹn vì không giúp tay chèo chống
Ngàn dặm chim bằng cưỡi gió bay


Cảnh quan cửa Tư Hiền hiện ra trong thơ Nguyễn Văn Tường thật hoà bình, hạnh phúc, tươi đẹp. Tôi tin rằng phải có sự xúc động chân thành, sự cảm thụ tinh tế của một nghệ sĩ đích thực mới viết được bài Tư Hiền tấn (Cửa Tư Hiền). Bài thơ có đoạn sau:

Hà Trung thu tích hậu
Thuận tấn chuyển lưu thư
Ba ổn trung lưu tiếp
Phàm quy viễn phố ngư
Trùng dương thông nhãn xứ
Vạn hác củng Triều dư


Tạm dịch là:

Trong sông tích tụ phù sa
Một dòng thong thả tuôn ra biển ngoài
Sóng êm chèo lướt sông dài
Bến xa ghe lưới buồm ai trở về
Trùng dương bát ngát bốn bề
Muôn sông rồi cũng tụ về nơi đây.


Thơ Nguyễn Văn Tường tuân thủ khá chặt chẽ lối cấu trúc của Đường luật, nhưng những tư duy và cảm nhận của ông về thiên nhiên thì rất lãng mạn. Đôi khi, ông mạnh dạn vượt qua cấu trúc cổ điển đó để viết những bài thơ dài theo ý mình như Hạnh Thúy Vân sơn và Tư Hiền tấn. Ta có thể gọi Nguyễn Văn Tường là một nhà thơ lãng mạn trong cổ điển.

Người ta cũng thường ca ngợi phong cách thi ca của Đường Tống bát đại gia, cụ thể là Lí, Đỗ. Tôi nghĩ rằng thơ chữ Hán của Nguyễn Văn Tường cũng chẳng kém gì thơ Lí, Đỗ. Hình ảnh trong thơ ông rất gần gũi với chúng ta khiến chúng ta dễ thẩm thấu, dễ cảm nhận hơn thơ Đường, Tống nhiều. Thí dụ như cảnh cửa biển Thuận An trong Cung họa Ngự chế thi nguyên vận Nhuận ngũ nguyệt hộ từ giá hạnh Thuận An tấn nhị thủ (Kính họa nguyên vận hai bài ngự chế: “Tháng năm nhuận, hộ giá Thái Hậu ra cửa biển Thuận An”), có hình ảnh rất đẹp:

Hải môn khả hạm giá ngao phi
Biến phúc từ vân thử khí vi
Quế trạo thuận lưu thanh tế tế
Da lâm thùy ấm lục y y
Sa đôi cổ lũy thăng thiên hiểm
Bác trĩ tàng đài phục viễn uy
Thử địa duyệt phòng tiên hiếu trị
Nam thiên vĩnh yết Vụ tinh huy.


Tạm dịch là:

Cửa biển, thuyền như trạnh lớn bay
Che khắp mây lành, nắng dịu thay
Chèo quế khua dòng, êm tiếng nước
Dừa xanh rủ bóng, đẹp màu cây
Cát lên lũy lớn đường muôn hiểm
Súng dựng đài cao thế cực dài
Lấy hiếu trị đời qua chốn ấy
Trời Nam, sao Vụ sáng không phai.


Thơ của Nguyễn Văn Tường còn ray rứt nỗi nhớ quê nhà Triệu Phong, Quảng Trị, miền đất nghèo mùa đông thiếu áo, mùa hạ thiếu cơm. Bố vợ làm ba bài thơ gởi ra Bắc thăm con rể; ông cũng họa ba bài gởi tạ lòng bố vợ - Họa nhạc ông kí phỏng tam thủ nguyên vận. Trong ba bài đó, tôi cảm xúc nhất khi đọc một bài có tiếng trẻ khóc chờ cơm:

Xứ xứ sầu văn đãi bô ngao
Ưu thâm nan tả chuyển sinh trào
Thừa lương thí hướng cao lâu vọng
Đố nhãn nhưng đa vị ngải cao (hao).


Tạm dịch là:

Chờ cơm, tiếng trẻ khóc trăm nơi
Ray rứt khôn nguôi phải bật cười
Dạo mát nhìn lầu cao chót vót
Nhiều đôi mắt ghét ngó không thôi.


Bài thơ thể hiện tình cảm ray rứt của một sĩ phu trước những cảnh đời vất vả, đói kém của đồng bào mình. Bài thơ còn thể hiện được một chút lập trường của nhà thơ trước cảnh sống xa hoa, sang trọng của một số quan lại triều Nguyễn. Tư duy dân bản – nhân văn đó không phải ai làm quan cho Triều đình Huế cũng có được.

Nhưng vượt lên trên tất cả, thơ của Nguyễn Văn Tường vẫn là thơ của một sĩ phu giàu lòng trung quân ái quốc. Đúng như phong cách của nhà nho “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, Nguyễn Văn Tường lo trước cái lo của mọi người và chỉ vui sau cái vui của mọi người. Đối với Nguyễn Văn Tường, vua Tự Đức là mặt trời, ông là đóa hoa hướng dương. Bài Ất Hợi nguyên chính (Ngày mồng một năm Ất hợi - 1875), thể hiện cái nhìn lạc quan, tự hào trước cảnh vua tôi nhà Nguyễn đón mừng ngày mồng một Tết:

Tam triêu khí tải thục
Tường quang mãn đế cư
Nhất niên trưng hưu cát
Quần tinh giai phát thư
Hi nhiên đăng xuân đài
Hồn nhiên lâm Hoa Tư
Đán hề ca phục đán
Quỳ tâm hướng nhật sư


Tạm dịch là:

Ba buổi bình minh dịu mát trời
Cung vua sáng đẹp khắp nơi nơi
Điềm lành hiện rõ trong năm mới
Muôn vật bừng lên vẻ tốt tươi
Hớn hở đài xuân vua ngự lên
Hòa cùng quan lại xếp hai bên
Sáng nay, ta hát một ngày trọn
Hoa quỳ theo bóng mặt trời nghiêng


Ông không che giấu được niềm tự hào khi tháp tùng nhà vua đi duyệt quân ngoài cửa Thuận An. Khí thế hùng mạnh của quân đội triều Tự Đức, dưới đôi mắt nhà nho Nguyễn Văn Tường, tưởng như có thể nuốt cả sao Ngưu, sao Đẩu. Bài Hạnh Thúy Vân sơn (Vua ngự giá núi Thúy Vân) nói lên tâm trạng ấy:

Phùng kim hạ ngũ nguyệt
Tích dư nguyệt phục viên
Thiên tử mệnh duyệt vũ
Chu sư hàm tỉ kiên
Triêu phát Hương giang tân
Tiền hậu như thiền liên
Vãn khai Thuận Trực áp
Điều điều vân thủy thiên
Vạn trạo phù trung lưu
Quân khí mộ ích kiên
Chu khinh phong tự sinh
Phong vị thủy tự liên
Thúy Vân tiệm giáp cận
Ngật lập như trữ diên
Đăng hoa thủy tạ mãn
Nhiêu tử nghỉ lâu thuyền
Tiên trượng quang như họa
Bồng đảo bất tiêu thiền.


Tạm dịch là:

Nay tháng năm mùa hạ
Còn dấu xưa trăng tròn
Vua ban lệnh duyệt quân
Lính chen vai thích cánh
Bến sông Hương buổi sáng
Trước sau quân nối liền
Chiều mở đập Thuận Trực
Trời mây nước nghiêng nghiêng
Vạn mái chèo lướt sóng
Ba quân thế oai hùng
Gió đưa, thuyền nhẹ lướt
Mặt nước im như gương
Gần đến núi Thúy Vân
Đứng hiên ngang chào đón
Thủy tạ đầy đèn hoa
Cập bến chèo khua rộn
Gươm bụt tiên, sáng như tranh
Nét thiền nguyên vẻ đảo xanh non Bồng.


Từng là tán lí quân vụ Bắc Kì, Nguyễn Văn Tường gắn liền cuộc đời mình vào những hoạt động tiễu trừ giặc Khách, vỗ an đời sống nhân dân biên giới Đông Bắc. Ông coi công tác tiễu phỉ là công tác hàng đầu. Bài Nguyên đán tảo cứ Quảng Yên tuần phủ Hồ Trọng Liễn mã đệ triệp tự quan binh đạp bình Phù Long phỉ sào nhân chí kì sự (Sáng mồng một Tết xem tờ trình của tuần phủ Quảng Yên Hồ Trọng Liễn [Đỉnh] đưa về bằng ngựa thuật chuyện quan binh dẹp tan ổ phỉ ở Phù Long, nhân đó mà ghi lại việc ấy) thể hiện một cách sâu sắc lòng ưu dân, ái quốc của ông. Bài thơ có những đoạn:

Thanh tướng lưỡng lâm vô thốn hiệu
Đạn nan chung thị di khấu sao
Kình nguyệt thố quật xuất một gian
Niên lai biên manh khổ sao náo...
... Chu sư ninh hoãn tiêm cừ khôi
Phù Long nhất cổ thiên hiểm thôi
Tướng biện dụng mệnh vô kiên địch
Thanh linh hách trạc vũ công khôi
Kỉ công hựu thích hành khánh điển
Phàm bách nhung thần thị chi miễn
Thùy vị ba đào bất khả khai
Vạn lí trùng dương tương tận quyển...


Tạm dịch là:

Tướng Thanh hai lượt qua, công cốc
Ngại khó, không dẹp được cướp bóc
Bọn chúng chui nhủi trong hang sâu
Biên cương, dân lành chịu tang tóc...
... Quân ta giết hết lũ cầm đầu
Phù Long, hồi trống sạch như lau
Tướng sĩ quên mình, không sợ giặc
Tiếng tăm hiển hách, võ công cao
Ghi công lại đúng dịp lễ mừng
Võ tướng trông vào gắng sức chung
Ai bảo sóng to không phá được?
Cuốn trôi ngàn dặm sạch trùng dương...


Thơ Nguyễn Văn Tường là thơ của một trọng thần. Cái gì đem lại niềm vui cho đất nước, cho nhân dân, cho nhà vua cũng khiến cho ông phấn khởi, sung sướng. Thơ của ông có cái nhìn lạc quan, tin tưởng đến lạ lùng. Bài Hà Trung đạo trung tác tỏ rõ khí tượng của một trọng thần:

Thập lí huân phong phất hạm kinh
Giang sơn toàn bức nhãn tiền trình
Quần phong nam củng thần kinh tráng
Chúng thủy đông triều hải lượng hoằng
Tuần nhạc, cửu đồng chiêm Thúy Lĩnh
Thao sư, hà tất tạc Côn Minh
Thần du tận thị ưu dân kế
Đáo xứ hương bồn hiệp đạo nghinh.


Tạm dịch là:

Mười dặm ru thuyền gió mát qua
Mắt nhìn toàn cảnh núi sông ta
Hùng thay ngàn núi nam chầu hết
Đẹp quá trăm sông biển đông hòa
Thúy Lĩnh lâu nay thường đến đó
Côn Minh hà tất dẫn quân qua
Lo dân, hoàng thượng lên thăm viếng
Hương án bày ra khắp mọi nhà.


Điểm son đẹp nhất trong thơ ca Nguyễn Văn Tường chính là tấm lòng trung quân ái quốc. Đó là tấm lòng của một nhà nho tiến bộ, một ông quan tận tụy với công việc, một bề tôi trung biết mình đang ăn lộc của ai và phải làm gì cho vua, cho nước. Tấm lòng ấy khác hẳn với thái độ ngụy tín của một số quan lại bàn giấy cầu an triều Tự Đức. Chúng ta hiểu tại sao Nguyễn Văn Tường trở thành nhân vật chính trong phái chủ chiến Triều đình Huế khi thấy quân Pháp liên tiếp thực hiện những thủ đoạn xâm lược đất nước ta, dày xéo nhân dân ta và vũ nhục Triều đình Huế. Cuộc binh biến 1885 đã nổ ra ngay trong kinh đô Huế. Quân ta thất bại trước vũ khí, khí tài và thế lực của quân Pháp. Vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết phò ra Tân Sở. Quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật và ông Tôn Thất Đính, cha của Tôn Thất Thuyết, bị đày ra Côn Đảo, sau đó bị đày qua đảo Tahiti. Ông Phạm Thận Duật chết trên đường đi; ông Nguyễn Văn Tường, ít lâu sau, ông mất, thân xác được đưa về an táng tại quê nhà.

Cuộc đời của ông Nguyễn Văn Tường là cuộc đời của một nhà nho hành động. Thi ca của ông bộc lộ được một phần con người hành động đó. Ông đúng là cây tùng, cây bách trong Triều đình nhà Nguyễn và phái chủ chiến, dù chỉ khiêm tốn nhận mình như một cây xà nhỏ:

Khẳng tác nhân gia tiểu giác lương.

V.Đ.S.B.

(Trích từ “Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập”, do Trần Viết Ngạc, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển sưu tầm, giới thiệu, phiên âm, dịch [mới 45 bài], tư liệu Hội nghị khoa học, 20. 6. 1996, do Trường ĐHSP. TP.HCM. chủ trì và ấn hành, từ tr. 14 đến tr. 22).


(*) Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu (nnc.) văn học.


(1) Hơn chín năm, theo lời của chính Nguyễn Văn Tường đã được ghi trong ĐNTL.CB., tập 30, sđd, tr. 172: 1853? - 1862?. Chưa kể gần hai năm, từ tháng mười Bính dần đến tháng bảy Mậu thìn (7. 11 - 7. 12. 1866 đến 18. 8 - 15. 9. 1868), Nguyễn Văn Tường trở lại Thành Hóa (Cam Lộ, Quảng Trị) làm bang biện, sau vụ Đoàn Trưng; không phải vì lí do liên can, mà vì cuộc khởi nghĩa Chày Vôi này nổ ra trong địa bàn trách nhiệm, và cũng theo sự tự nguyện từ chức của ông (1864), khi Tự Đức cho tiến hành việc xây dựng “Vạn Niên cát địa”, đồng thời cũng vì khát vọng xây dựng chiến khu Tân Sở (Cam Lộ) để chuẩn bị kháng chiến (ĐNTL.CB., tập 30, sđd., tr. 87 và 238; xem thêm chú thích (16), bản dịch nghĩa bài thơ số 56).

[Xin lưu ý: chú thích (16) của bản dịch nghĩa bài thơ số 56, có đoạn trích từ ĐNTL. CB, tập 30, sđd., số trang nói trên].

(2) Xin xem chú thích (1), (2), (4) của bản dịch nghĩa bài thơ số 14, sách này.

4. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886) -- THƠ -- VÀI NÉT VỀ CON NGƯỜI, TÂM HỒN & TƯ TƯỞNG / Tệp 4

NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824-1886)
VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ
SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7. 1885)


(VÀI CHỦ ĐIỂM SỬ HỌC SƠ LƯỢC CẦN THIẾT
KHI CẢM NHẬN BÀI “GIẢI TRIỀU…” (1)
CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG).


Trần Xuân An


GIẢI TRIỀU…

Tam thập niên lai phí kỉ kinh
Vô đoan dạ bán bách sầu sinh
Kì khai tam sắc, vân lôi biến
Già thính song xuy, kê khuyển kinh
Sơn kính vạn trùng thương thuý liễn
Thần tâm nhất dạng luyến đan đình
Thị phi nhiên phó thiên thu hậu
Xã tắc quân vương thục trọng khinh?

CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH…

Ba chục năm qua phí trí mình
Nửa đêm, gian tả! Ép buồn sinh
Cờ chia ra khoảnh, giông quyền biến
Kẹp siết theo roi, chó hãi kinh
Núi biếc vạn trùng, lo kiệu Ngự
Lòng son một dạng, luyến sân Đình
Đúng? sai? Ấy gửi nghìn thu luận
Theo nước – phò vua, đâu trọng khinh?
(Bản dịch thơ từ nguyên tác chữ Hán).

Hai câu bổ sung:
CHIA TÁCH TRIỀU CHÍNH…

U trung thùy bạch thiên thu hậu?
Xã tắc quân dân thục trọng khinh?

Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ?
Tổ quốc, dân, vua, đâu trọng khinh?





1) MỘT BỐI CẢNH LỊCH SỬ HOÀN TOÀN BẾ TẮC.

Tứ thơ “chia tách triều chính” nhưng vẫn “nhất dạng” khởi từ tình huống mà Dụ Cần vương ghi rõ: “Từ xưa kế sách chống giặc không ngoài ba điều: đánh, giữ, hòa. Đánh thì chưa có cơ hội [điều kiện thực lực – TXA. chua thêm (:ct).], giữ thì khó lượng được sức, hòa thì chúng đòi hỏi không biết chán. Đương lúc sự thế muôn vàn khó khăn như vậy, bất đắc dĩ phải dùng quyền [quyền biến – ct.]” [1].

Hai mật dụ Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) gửi về cho Nguyễn Văn Tường (02.6 Ất dậu) và hoàng tộc (07.6 Ất dậu, 1885) cũng nói đến kế sách quyền biến với nhiệm vụ “kẻ ở” của ông.

2) SỰ PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ LỊCH SỬ: "TỔ QUỐC, VUA, DÂN, ĐÂU TRỌNG KHINH?".
NỖI KHỔ TÂM, LÒNG TRUNG NGHĨA CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG QUA MẬT DỤ HÀM NGHI GỬI VỀ TỪ TÂN SỞ (CAM LỘ, QUẢNG TRỊ).


Tất nhiên, “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”, câu ấy đưa ra một sự chọn lựa với hành động chính trị cụ thể trong tình huống lịch sử cụ thể, ai là “kẻ ở”, ai là “người đi”.

Chính trong mật dụ gửi về từ Tân Sở, Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) đã dùng hai từ ấy với xác quyết: “Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta quanh quẩn, còn ngươi [:Nguyễn Văn Tường – ct.] là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm; kẻ ở, người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản; trời đất cũng thực chứng giám…” [2]. Mật dụ ấy cùng với Dụ Cần vương được gửi về và phát đi trong một ngày (02.6 Ất dậu: 13.7.1885).

Nguyễn Văn Tường đã chọn lựa vị trí giáp mặt với kẻ thù một cách trực diện, một vị trí mà Tôn Thất Thuyết không có khả năng đảm đương. “Kẻ ở”, cũng là nhiệm vụ bà Từ Dũ giao phó cho ông [3]. Nguyễn Nhược Thị Bích kể bằng thơ:

“Thấy người trước đón lên đường
Gửi rằng: “Có Nguyễn Văn Tường chực đây”
Phán rằng: “Sự đã dường này
Ngươi tua [:lo; nên – ct.] ở lại, ngõ rày xử phân”
Vâng lời Tường mới lui chân
Giá ra khỏi cửa, dân lần dõi theo”.


Và ở "Dậu Tuất niên gian phong hỏa kí sự":

“Thuyết – Tường sanh sự sự sanh [?! – ct.]
Đem Hàm Nghi trốn bôn hành Khiêm Lăng
Cùng nhau bàn luận rứa răng
Thuyết đi hộ giá, Tường băng về đầu
Khéo làm chước nhiệm [:nhịn? “thành thực”? – ct.]
mưu sâu
Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình”
[4].

Cho dù với cách diễn đạt theo quan điểm thuộc chính kiến nào đi nữa, hai đoạn thơ trên cũng phản ánh về một sự thật lịch sử!

3) "LÒNG TRUNG SÂU KÍN, SAU AI TỎ?".

“U trung thùy bạch thiên thu hậu?”. Đó là nỗi băn khoăn của Nguyễn Văn Tường từ ngày 23.5 Ất dậu (05.7. 1885).

3.a. ĐẤU TRANH MẶT NỔI VÀ MẶT CHÌM.

Qua các tư liệu lịch sử có tính cùng thời, sau khi đối chiếu, loại trừ, thấy rõ Nguyễn Văn Tường vẫn công khai đấu tranh với De Courcy, De Champeaux, Silvestre, Nguyễn Hữu Độ trong hai tháng sau đêm Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 Ất dậu, 1885). Hơn thế nữa, ông còn ngầm chỉ đạo phối hợp với phong trào Cần vương.

3.a.1. ĐẤU TRANH VỚI THỰC DÂN PHÁP, BỌN TAY SAI, CƠ HỘI.

Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi rõ [5], tất nhiên với giọng điệu và cái nhìn của người chép sử bảo hoàng dưới chế độ phong kiến. Dẫu vậy, qua đó, hậu thế vẫn thấy Nguyễn Văn Tường khẳng khái, không hề chịu khuất phục khi đối mặt với kẻ thù đã thắng trận, với bọn tay sai vốn đã từ lâu bán linh hồn cho quỷ thực dân và tả đạo:

“Lấy quyền tổng đốc Hà – Ninh là Nguyễn Hữu Độ thăng thự Vũ Hiển điện đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần, vẫn sung Bắc kì kinh lược đại sứ.

Khi ấy Hữu Độ đã trở về Hà Nội, đô thống Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – ct.], khâm sứ là Tham-bô [De Champeaux – ct.] bàn nói: Hiện nay Bắc kì lắm việc, Hữu Độ ở đấy hiểu nhiều, nên trao cho điện hàm, sung viện chức, và vẫn sung chức sứ ấy; phàm đốc, phủ, bố, án, ở các tỉnh Bắc kì cho đến các phủ huyện, nếu nơi nào có khuyết, cho do Nha Kinh lược sứ chọn tâu, chờ chỉ định đoạt. Nhiếp chính Miên Định, phụ chính Nguyễn Văn Tường phúc tâu [cho thái hoàng thái hậu Từ Dũ – ct.] việc đó là tạm thời [TXA. in đậm (:iđ)], nghĩ nên tạm nghe ý đó mà làm. Văn Tường nhân phụng dụ [của Từ Dũ – ct.] nói: trải bày lý do. Lại nói: do ngươi tuy việc thoả bàn vụ hợp thời nghi để xứng với lời khen của người mới được. Vì ý ám chỉ chê Hữu Độ nương tựa vào thế quan Pháp, để được ngôi cao, mà không phải tự bản ý do mệnh lệnh của Triều đình vậy.
(Trước đây, Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết cho rằng Hữu Độ ở Hà Nội phần nhiều hay nịnh hót, quan Pháp rất được vui lòng; Cơ mật viện nhiều lần đem việc tâu lên, chuẩn cho khiển giáng hay triệu về, Hữu Độ đều được quan Pháp che chở, rất là đáng ghét [iđ.].
Ngày tháng 7 năm ngoái, khuyên Bùi Hữu Tạo lấy việc xây sinh từ [của Nguyễn Hữu Độ – ct.] để tâu hặc, vì muốn nhân đó để đẩy Hữu Độ đến tội. Hữu Độ chứa sự bất bình đã lâu. Gần đây đô thống Pháp từ Bắc về Sứ quán, tức thì trước mời Văn Tường và Thuyết đến họp. Thuyết ngờ sợ cho là hẳn Hữu Độ đã có ngầm chỉ thế nào, nên mới như thế, cho nên sau không chịu đi; bèn gây hận; đến đây [Hữu Độ – ct.] về kinh, [ y – ct.] lại đến Sứ quán, rồi về nhà riêng [của Hữu Độ tại Huế – ct.], uỷ đón nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định tới bàn với Văn Tường; và [Hữu Độ – ct.] gièm [rằng – iđ. & ct.] không bàn với Thọ Xuân vương thì đừng đi. Kịp khi Hữu Độ tới Sở Thương bạc mà Văn Tường ở đó, hai người nói chuyện với nhau, đã hơi có ý khiếm hòa [:thiếu hoà khí – ct.]; Văn Tường phụng dụ này, lời lẽ lại có ý chê ngầm theo kiểu bì lí xuân thu [:bề ngoài với lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu – ct.]. Hữu Độ tiếp dụ, giận lắm, nhân đó càng thêm để lòng)”.


Qua giọng điệu và cách nhìn không được trong sáng lắm của nhà chép sử triều Nguyễn, chúng ta gạt đi khía cạnh bị nhuộm màu cá nhân hiềm khích, sẽ thấy rõ, thực chất, đó là cuộc đấu tranh về vấn đề bố trí quan chức ở Bắc kì, vấn đề chống bọn tay sai, cơ hội, Nguyễn Hữu Độ là tiêu biểu.

Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, trước đó đã “đặc biệt đem câu xem gió chuyển buồm trách Hữu Độ” [6]. Mà đâu chỉ Nguyễn Hữu Độ! Cùng một giuộc với y, còn có Nguyễn Trọng Hợp [7], Hoàng Cao Khải, Nguyễn Huy Lân… [8], và bất ngờ nhất, còn là Nguyễn Thân (con trai Nguyễn Tấn), lẫn Phan Đình Bình!

Thực chất của vấn đề bố trí nhân sự ấy, xét cho cùng, là vấn đề còn hay mất Bắc kì. Đó là nội dung của khoản 7 “hòa”ước Patenôtre (1884). Và tại sao lúc đó, kinh đô đã thất thủ, Nguyễn Văn Tường vẫn không chấp nhận “như quan Pháp có kiểm được quan Nam nào nên làm hoán cách, có xin hoán cách ấy, tức làm hoán cách” [9], mà chỉ miễn cưỡng, xem là tạm thời, còn đòi hỏi Pháp phải trải bày lí do [10], mặc dù Từ Dũ đã chấp nhận? Phải chăng Nguyễn Văn Tường đang dựa vào sức quật khởi của phong trào Cần vương đang dậy lên khắp cả nước, và theo mật dụ Hàm Nghi gửi về: “cùng y [De Courcy – ct.] giảng rõ về lí thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thỏa hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên – ct.], phàm những khoản gì bách thiết, phải chung nhau bàn đổi” [11]?
Dẫu trong thế kẹt lịch sử như vậy, Nguyễn Văn Tường vẫn đấu tranh trực diện với De Courcy, De Champeaux, Nguyễn Hữu Độ mà ĐNLT.CB., tập 36, tr. 236 – 237 đã ghi, như đã trình bày ở phần trên. Việc Nguyễn Văn Tường phải kí phụ ước (30.7.1885) ấy với Silvestre, Nguyễn Hữu Độ, đã được Nguyễn Nhược Thị Bích miêu tả:

“Pháp nhân lập ước hội đồng
Những điều lấn hiếp khó lòng y theo
Văn Tường chẳng khứng thuận chiều
Trái tình, Hữu Độ mượn điều Bắc quy”
[12]

Từ năm 1921, ngay dưới chế độ thực dân, Trần Trọng Kim đã viết một cách kín đáo:

“Trong khi vua còn đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc, giao binh quyền Binh bộ thượng thư cho viên khâm sứ De Champeaux, để bãi việc binh lính của ta đi [iđ.], và gọi quan kinh lược ở Bắc kì là Nguyễn Hữu Độ và quan tổng đốc Nam Định là Phan Đình Bình về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc Cơ mật. Vì hai ông ấy ở Bắc kì đã hiểu mọi việc và đã biết theo chính sách bảo hộ [iđ.], cho nên thống tướng đem về để thu xếp mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp ý nhau [iđ.], Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc kì” [13].

Hợp ý thế nào được với kẻ bán nước, “đã biết theo chính sách bảo hộ”, thực dân Pháp bảo gì nghe nấy!

3.a.2. ĐỐI PHÓ VỚI PHE CHỦ "HOÀ" (TỪ DŨ, MIÊN ĐỊNH...) VỚI PHƯƠNG THỨC "KHÔNG BIẾT GÌ HẾT".

Một vấn đề gay cấn nữa là Nguyễn Văn Tường không chỉ phải đối phó với Pháp và bọn cơ hội, tay sai, mà còn phải đối phó với phe chủ “hòa”, đứng đầu là Từ Dũ cùng Miên Định (giám quốc, nhiếp chính). Miên Định là một người có tư cách hèn hạ đến mức ngửa tay xin tiền khâm sứ Pháp, đến nỗi Đồng Khánh cũng cho là nhục quốc thể [14]!

Đối với thái hoàng thái hậu Từ Dũ, Nguyễn Văn Tường phải làm ra vẻ bị Tôn Thất Thuyết lừa dối [15] (2). Ông ở trong thế kẹt, nên phải vờ như giữa ông và Tôn Thất Thuyết chưa hề bàn bạc để khởi binh đêm 22 – 23.5 Ất dậu (05.7.1885), mặc dù đấy là cuộc khởi binh bất đắc dĩ, bị Pháp ép vào thế chẳng đặng đừng:

“Bằng còn ỷ thế quá ngang
Thời ta sẽ liệu quyết đường hơn thua!”
[16].

Biết sẽ có khả năng bị thất thủ, nhưng đến lúc cũng “đành liều may rủi với trời” [17].

Cuộc Kinh Đô Quật Khởi chỉ nhằm phát động tổng nổi dậy Cần vương trên toàn quốc để đấu tranh ngoại giao, chính trị.

Nguyễn Văn Tường giả vờ “không biết gì hết” trong đêm 22 – 23.5 Ất dậu, 1885 [18] để ở lại làm nhiệm vụ đàm phán của “kẻ ở”, trong khi Tôn Thất Thuyết là “người đi”.
Phương thức “không biết gì hết” được Aldophe Delvaux cho là: “Ông phụ chánh thứ nhất (Tường) đã miễn cưỡng hành động dưới ảnh hưởng ngông cuồng của ông Thuyết, bất chấp mọi lời khẩn cầu của mẹ vua Tự Đức và ông hoàng Hoài Đức (em vua Thiệu Trị) [thay Hồng Hưu – ct.] là những người chống lại các sự vận động của phái yêu nước” [19] (3). Theo Delvaux, ấy là tin tức mật thám của Pháp trong buổi sáng 04.7.1885 mà De Champeaux nắm được! Thật ra, Nguyễn Văn Tường đã cho phép và đã thay mặt vua ra lệnh cho Tôn Thất Thuyết chuẩn bị kháng chiến, lập đạo quân Phấn Nghĩa cho thêm thanh thế (1883 – 05.7.1885), để đấu tranh với Pháp. Ngay trong những giờ phút sắp đến thời điểm nổ ra cuộc Kinh Đô Quật Khởi, khi Tôn Thất Thuyết “lại nghiêm sức các quân dinh kiểm soát, chỉnh đốn những đồ khí giới, Văn Tường với đình thần cho rằng đó cũng là thanh thế để phòng bị vậy” [20]. Và tất nhiên, nếu cần, cũng phải lấy tấn công làm phòng thủ.

3.a.3. VỚI PHƯƠNG THỨC "KHÔNG BIẾT GÌ HẾT", NHẰM PHỐI HỢP BÍ MẬT NHƯNG CHẶT CHẼ VỚI PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG.

Quả vậy, Nguyễn Văn Tường đã lãnh đạo Cơ mật viện họp bàn rất bí mật. Đã đến lúc không thể không thực hiện kế hoạch chính Nguyễn Văn Tường cùng Thân Văn Nhiếp, Nguyễn Quýnh vạch ra, và Nguyễn Văn Tường đã đích thân, tự nguyện tiến hành bước đầu từ 1864, 1866 [21]. Gần hai mươi năm trước thời khắc lịch sử này, đó là việc tâu xin mở thượng đạo, đặt cơ sở để khởi công xây dựng thành lũy Tân Sở, tuy còn dở dang. Khát vọng kháng chiến còn thể hiện ở bài thơ “Bệnh trung kí phỏng đồng chí” [22] (4) được viết vào quãng thời gian còn tiễu phỉ ở phía bắc, khoảng những năm đầu của thập kỉ 70 (thế kỉ XIX). Và vào năm 1883, kế hoạch đó lại được tiến hành một cách vữõng chắc với quy mô lớn [23]. Trong thời điểm cụ thể vào đầu tháng 7.1885 này, Tôn Thất Thuyết cũng như Nguyễn Văn Tường, cả hai cùng “nhất dạng”, nhất trí với sự tổng hợp phương thức: vừa kháng chiến vũ trang (đánh), vừa “không biết gì” (đàm), phương thức ông đã từng đấu tranh thắng lợi vào cuối năm 1873, đầu năm 1874. Thắng lợi ấy, ngay cả “Quốc triều chính biên toát yếu” [24] lẫn “Việt Nam sử lược” [25] đều ghi nhận, và trích dẫn nguyên văn cuộc đối thoại giữa Nguyễn Văn Tường với Philastre một cách thán phục (5). Còn đây là đoạn đối thoại giữa vua Tự Đức với triều thần và Nguyễn Văn Tường về phương thức “không biết gì” kết hợp với tiến công vũ trang, sau khi đã thành công:

“Vua bảo […] Viêm và Thuyết mùa đông năm ngoái [21.12.1873 – ct.] giết được đầu sỏ giặc, làm mất khí thế của chúng, Nguyễn Văn Tường nhân đấy dễ làm việc; Văn Tường nói: Tuy có trở ngại một chút, nhưng thực giúp được nhiều. Đấy là lời bình tâm không khoe công. Viêm và Thuyết nên [được – ct.] phong tước, giả lại chức quan” [26].

Đó là lúc thu hồi lại bốn tỉnh Bắc kì, sau khi hạ sát Françis Garnier trong sự tức tối điên cuồng của Jean Dupuis, Puginier, Rheinart và bọn “dữu dân” trong giáo dân (như tên ngụy tổng đốc Trương, vốn là thợ rèn theo “tả đạo” chẳng hạn) [27].

Phương thức đó, mười năm sau (1883) vẫn còn hiệu quả, với cái chết của Henry Rivière, cũng do quân Lưu Vĩnh Phúc trực tiếp hạ sát, dưới sự chỉ đạo của Hoàng Tá Viêm, tại Hà Nội.

Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại tiến hành một lần nữa, dữ dội và quyết liệt hơn, ngay tại kinh đô Huế, 1885.

Dẫu thất bại, Nguyễn Văn Tường, sau 05.7.1885, vẫn tiếp tục đấu tranh. Bởi thế và lực so với 1873, 1874 đã ngặt nghèo hơn, Nguyễn Văn Tường không còn ở tâm thế ung dung như mười hai năm trước, mà đang vô cùng khổ tâm. De Courcy không bị hạ sát! Mang Cá và Tòa Khâm không bị triệt tiêu như mong muốn! De Courcy và De Champeaux lại đang nhân danh Triều đình để thao túng!

Do đó, phong trào Cần vương vũ trang đã bùng lên khắp nước!

Quốc kế “chia tách triều chính” nhưng vẫn “nhất dạng”, phối hợp bí mật nhưng rất chặt chẽ, là một sáng tạo rất táo bạo, trong điều kiện thế và lực lúc bấy giờ!
Qua việc trích dẫn những tư liệu của Puginier, theo giáo sư Nguyễn Văn Kiệm [28], chúng ta thấy rõ sự thật lịch sử, với sự miêu tả của chính đối phương, về nỗ lực của Nguyễn Văn Tường: “Vua Hàm Nghi đi theo Thuyết còn phụ chính Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng, lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng 30.000 giáo dân đã bị hại chỉ trong vòng 2 tháng và hơn 1.000 người khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành mệnh lệnh trên…”.

Delvaux, trong bài viết ở sách đã dẫn [29], cũng miêu tả cảnh “sát tả đạo” trước và sau 05.7.1885, đặc biệt là sau ngày lịch sử bi hùng ấy, tại Bình Định, Quảng Trị, Nghệ An. Trần Trọng Kim, trong “Việt nam sử lược” [30], cũng ghi rõ: “Tôn Thất Thuyết […] làm hịch Cần vương truyền đi khắp nơi […]. Sách Tây chép rằng […] dân bên đạo phải tám ông cố và hơn hai vạn người bị giết”.

Đối phương đã kết án Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là “tàn nhẫn”, “hiếu sát”! Sự “tàn nhẫn”, “hiếu sát” (hai từ này về sau cũng bị Trần Trọng Kim xuyên tạc!), theo cách nói của các gián điệp thực dân trong lốt áo “tả đạo”, vốn đã khởi động từ lúc Pháp đánh chiếm Thuận An (Huế, 1883). Bởi “tả đạo” cũng chẳng khác gì những năm trước đó, ở Đà Nẵng, ở Gia Định, và ở Hải Dương, Ninh Bình… (6):

“Ngoài thời Tây tặc lưới giăng
Trong thời tả đạo chạy quanh bốn bề”
[31]…

cho nên, không thể khác được, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, hai người thiết kế chiến lược và chiến thuật cho công cuộc kháng chiến chống Pháp bấy giờ, với tư cách là hai người lãnh đạo cao nhất Cơ mật viện lúc ấy, đã phải kiên quyết. Sự kiên quyết đó, Aldophe Delvaux đã viết lại theo giọng điệu thực dân ra vẻ khách quan của y:

“Triều đình thấy nguy cơ mất độc lập, đã bàn bạc ngầm các phương kế để chận đứng sự lấn chiếm của Pháp. […] Tôn Thất Thuyết, […] Nguyễn Văn Tường đã lôi kéo Hội đồng Cơ mật thoả thuận hai vấn đề quyết định như sau: Ra một mật lệnh cho các sĩ phu định rõ ngày tàn sát cùng lúc tất cả giáo dân trong toàn quốc [! sic! – ct.]. Sau khi loại kẻ tiếp tay cho quân xâm lược sẽ chuyển Triều đình và Chính phủ đến một pháo đài kiên cố, và đến các vùng hiểm trở bất khả xâm phạm. Đó chính là Cam Lộ hay đúng hơn là Tân Sở, và đó là trung tâm liên kết lực lượng ái quốc, là nơi Triều đình sẽ tạm dừng chân. Các chuẩn bị kì quặc để hình thành do những kỉ niệm quá khứ [của Nguyễn Văn Tường với vùng đất Cam Lộ – ct.], thảm hại thay, lại đã được thực hiện một phần lớn” [32].

Cũng về thời điểm 1883, theo Jabouille, phụ trách Tổ chức công vụ Pháp, công sứ Pháp tại Quảng Trị:

“Các người chống Pháp nói rằng: “Những người Thiên Chúa [giáo – ct.] phản bội Tổ quốc để làm lợi cho nước Pháp. Chúng ta chỉ hòa bình khi nào người Pháp không có sự ủng hộ trong nước…”” […]. “Việc đánh lấy Thuận An, và buộc chấp nhận đô hộ làm cho ông phụ chính Tường tức giận tột độ; nhưng ông Tường âm thầm, cẩn thận đè nén sự tức giận để dùng nó vào một dịp thuận lợi” [33].

Và sự thể, theo Puginier viết về thời gian hai tháng sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 Ất dậu, 1885), như đã trích dẫn, chắc chắn chỉ vì tình huống lịch sử bắt buộc, bởi, giáo dân thời bấy giờ, nói như Đoàn Trưng từ trước 1866:

“Gia-tô nội ứng ghê thay
Giúp đem lương thực chẳng ngày nào không”.


Quả thật, đến 1885, sự nội ứng của “tả đạo” Thiên Chúa giáo đã quá công khai!
Sách “Compendium…” của Raviê (Ravier), có đoạn viết: “Bấy giờ mới nổi cơn bão táp rất dữ dội quá sức; từ khi nước Nam có đạo chẳng hề bao giờ bổn đạo phải cực khốn cực nạn bằng bấy giờ; vì trước kia, khi cấm đạo, chỉ có quan quân đi bắt bớ mà thôi, còn dân ngoại thì chẳng lo việc ấy, lại cũng thương kẻ bị bắt bớ. Còn lần này quan và dân ngoại đều đồng tâm hiệp lực mà quyết tận diệt kẻ có đạo” [34].
Và theo Delvaux:

“… Các quan chức không muốn dính líu vào, sợ có sự không may về sau [cách diễn đạt của Delvaux – ct.], nên để việc đó cho các sĩ phu đảm nhận, còn riêng họ vẫn ở trong bóng tối.
Trong các tỉnh, trong khi các sĩ phu chuẩn bị chiến đấu, thì các vị quan lớn lo trấn an các công chức của chính quyền bảo hộ cũng như các vị linh mục và giáo dân. Khi mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi rồi, các sĩ phu tiến chiếm thành trì của các tỉnh, và các quan tỉnh thì nhanh tay giao nạp các thành trì ấy, sau một vài sự phản kháng qua loa; và như thế là những cuộc cắt cổ [!sic! – ct.] bắt đầu”
[35].

Các quan ở tỉnh thì như thế, còn Nguyễn Văn Tường? Nguyễn Văn Tường cũng không thể khác hơn:

“Tướng De Courcy lấy tin tức [ở – ct.] ông Tường, ông này đều bảo đảm rằng sự trật tự an ninh đang hình thành khắp nơi. [Trong khi đó – ct.], các tin tức báo động dồn dập từ miền nam [tả kì – ct.] được gửi đến. Tướng Prudhomme muốn biết tường tận tình hình thật sự các việc, đã được ông De Courcy chấp thuận và cho phép đến các nơi ấy. Ông đi cùng ông De Champeaux trên chiếc tàu “Le Lutin” và đến Quy Nhơn ngày 18.8 [1885 – ct.], và ông đã mục kích toàn là máu lửa” [!sic ! – TXA. ct.] [36] (xem thêm chú thích (10)).

Lại theo Jabouille:

“Một vài nhà truyền giáo trong tỉnh và một vài ông quan cho biết rằng năm 1885, nhất là vào tháng 9, tỉnh Quảng Trị đã là hiện trường của một cuộc tiêu diệt có phương pháp, được tiên liệu, có tổ chức, để loại trừ các người theo đạo Chúa, gây ra bởi đảng của Văn thân, có sự ủng hộ tinh thần của ít nhất là hai quan phụ chính…” [37].

Các “nhà truyền giáo” đó chính là Aldophe Delvaux, Henry de Pirey – những kẻ đã ra vẻ khách quan, thực chất lại thù hận sâu sắc Nguyễn Văn Tường, người đã bị chính phủ Pháp “đày cho chết”! Gạt đi những xuyên tạc, bóp méo, bịa ra cái gọi là ý nghĩ quần chúng để bôi nhọ của các tên thực dân, tả đạo trong các bài viết của chúng với mục đích trả thù, phục hận, sẽ thấy sự thật lịch sử đã diễn ra.

Sự thật lịch sử ấy đã diễn ra, bởi lẽ, Triều đình Huế với lực lượng vũ trang khắp các tỉnh đang bị suy yếu, nhưng thật sự lực lượng quân sự của Pháp cũng không lớn, nên vấn đề do tình thế đặt ra là cần phải tiêu diệt bọn “dữu dân” nội phản, nhằm cô lập bọn thực dân Pháp, biến chúng lâm vào tình cảnh như “cua gãy càng”, mặc dù chúng chiếm được kinh thành Huế, thậm chí chúng đặt được ách “bảo hộ” lên cổ của dân tộc ta! [38] (6).

Và bởi lẽ, quan trọng, quyết định hơn, ấy là không còn cách nào khác, trong điểm đỉnh tột độ của mâu thuẫn đối kháng, giữa lực lượng dân tộc, yêu nước với bọn thực dân Pháp mà hậu thuẫn của chúng là “tả đạo”. Đó là biện pháp chẳng đặng đừng trước sự lấn hiếp của thực dân và “dữu dân”, để củng cố lại chính quyền nhằm làm hậu phương cho phong trào Cần vương, chống Pháp bằng vũ trang và bằng thương thuyết. Biện pháp bạo lực quyết liệt ấy, xuất phát từ tình thế: không còn hậu phương, hậu thuẫn nước ngoài nào khác! Chúng tôi nhấn mạnh: không còn hậu phương, hậu thuẫn nước ngoài nào khác! (7). Vả lại, đâu chỉ bởi mệnh lệnh của Nguyễn Văn Tường phối hợp với Dụ Cần vương của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, trong cuộc nổi dậy toàn quốc này, mà còn do chính sức mạnh quật khởi hoàn toàn tự giác của nhân dân!

Chúng tôi đã đối chiếu với “Đại Nam thực lục, chính biên” đệ ngũ kỉ [39], và thấy rằng hiện thực máu lửa ấy là có thật. Tuy nhiên, còn phải thấy rõ, Delvaux, Puginier, H. Ravier, Jabouille, các tên thực dân khác đã thổi phồng con số giáo dân theo Pháp xâm lược đến mức kinh hoàng. Sự thổi phồng quá đáng ấy (ngay cả trong vè “Thất thủ kinh đô” [40]), là nhằm biện minh cho việc Pháp đặt ách đô hộ lên cổ dân tộc ta, nhằm kích động giáo dân ở “mẫu quốc” và Tòa thánh La Mã (8).

Như thế, chỉ có thể là: vì tình huống lịch sử, Nguyễn Văn Tường không thể bày tỏ cho mọi người biết, chính ông cùng Tôn Thất Thuyết đã chuẩn bị, rồi cùng tiến hành cuộc Kinh Đô Quật Khởi, lại phối hợp liên lạc thường xuyên với phong trào Cần vương cũng theo cách vừa tiến công vũ trang (kẻ đánh), vừa “không biết gì” (người đàm), cho đến ngày Nguyễn Văn Tường bị đày đi Côn Đảo; và uy tín Nguyễn Văn Tường quá lớn, chúng đày ông tít tận Tahiti, gần nam châu Mỹ, sau nhiều thủ đoạn li gián Nguyễn Văn Tường với Tôn Thất Thuyết (như vụ đốt nhà Nguyễn Văn Tường chẳng hạn)!

Việc Nguyễn Văn Tường bị lưu đày, lại theo Delvaux, ngoại vụ Paris tại Việt Nam, trong bài viết ở sách đã dẫn [41]: “Một sự mâu thuẫn sâu xa chia rẽ tướng De Courcy và ông De Champeaux, nhất là đối với vấn đề ông phụ chánh Tường. Vị tướng thì quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết và [trước đó – ct.] lại nhúng tay vào mọi cuộc âm mưu lật đổ, và đem xuống tàu đày đi Côn Đảo ngày 6.9 [1885 – ct.]… […] lại chuyển đến Tahiti […]. Ông De Champeaux lại cho rằng ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn… […]”.

Tất nhiên, Delvaux vẫn cài vào bài viết, ngay cả ở đoạn văn trên những câu chứa đựng sự mị dân, sự thất thiệt, chẳng hạn như sự “độ lượng” của chúng, thời điểm Nguyễn Văn Tường chết (xem thêm chú thích (15)).

Chúng tôi cũng không trích dẫn để nhằm nêu lên sự mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, cách đối xử đối với Nguyễn Văn Tường, theo quan điểm thực dân riêng của mỗi tên đầu sỏ giặc. Điều đáng lưu ý, chúng “quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết”, “ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn” [42]. Điều này khớp với “Đại Nam thực lục, chính biên”: hai mật dụ Hàm Nghi gửi về, và chắc hẳn có những tập tâu đối của Nguyễn Văn Tường gửi lên chiến khu Tân Sở. Việc án sát Quảng Trị Tôn Thất Nam được ủy nhiệm lên Tân Sở họp với Tôn Thất Thuyết cũng đã được ghi nhận rõ [43].

Phương thức “không biết gì”, khác với lần thành công cuối năm 1873 bước sang 1874, là lần này (1885) không có đoạn kết chiến thắng, nên Nguyễn Văn Tường không được dịp cùng Tôn Thất Thuyết bày tỏ trước Tam Cung và đình thần cùng nhân dân. Tuy nhiên, Quốc sử quán triều Nguyễn biết rõ điều đó. Chi tiết Dụ Cần vương và mật dụ gửi Nguyễn Văn Tường từ Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) được viết một ngày, phát đi và gửi về một lúc (02.6 Ất dậu, 1885) đã làm sáng tỏ. Và bản án chung thẩm cáo thị của hai tên De Courcy, De Champeaux, vô hình trung, làm sáng tỏ như một xác quyết của “lân sử” (tín sử). Chúng tôi sau khi nghiên cứu trọn đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục kỉ (tập 27 – tập 38) của “Đại Nam thực lục, chính biên”, lưu ý đến “bản án” về Nguyễn Văn Tường, đã hơn một trăm năm trước được Quốc sử quán cẩn thận ghi chép lại, thấy rằng bản án của thực dân đối với Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù không đội trời chung” của chúng, vô hình trung mà hiển nhiên, là bản án đẹp nhất, rực rỡ nhất, chưa từng có trong giai đoạn đầu chống Pháp của dân tộc ta, một giai đoạn lịch sử bi hùng nhất với một nhân vật bi hùng nhất: Nguyễn Văn Tường!

Tất nhiên, phương thức “không biết gì” cũng đã gây ra quá nhiều ngộ nhận và dễ bị xuyên tạc. Sóng đôi với ông, người cùng thực hiện kế hoạch kháng chiến với ông (mặc dù Tôn Thất Thuyết trước tháng 11 âl., 1881, hầu như không biết gì về Tân Sở, hệ thống sơn phòng và thượng đạo Bình Định – Nghệ An), Tôn Thất Thuyết nhận tất cả hào quang bi tráng. Nói thế, thực ra, Tôn Thất Thuyết cũng bị xuyên tạc, bôi nhọ, nhưng kẻ thù khó lòng xuyên tạc, bôi nhọ hơn, và hậu thế cũng dễ thanh minh hơn, bởi Tôn Thất Thuyết là hình ảnh của người kháng chiến trong điều kiện bế tắc chung của các nước Á, Phi, Mỹ la tinh thuở bấy giờ! Trong khi đó, người ta dễ đánh đồng hoặc nhầm lẫn Nguyễn Văn Tường với cánh chủ “hòa”, đầu hàng! (Xem thêm chú thích (13)).
Phương thức tổng hợp, “không biết gì” (kẻ ở, đấu tranh bằng thương thuyết) và chiến đấu vũ trang (người đi, đấu tranh bằng quân sự), Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã hợp lực tiến hành, trong lần Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885), dẫu sao, cũng đã sáng tỏ *.

3.b. NHIỆM VỤ LỊCH SỬ VỚI LẬP TRƯỜNG KIÊN ĐỊNH, THÁI ĐỘ CHÍNH TRỊ "NHẤT DẠNG".
SỰ NGỘ NHẬN, XUYÊN TẠC.
THỰC DÂN PHÁP THAO TÚNG TRONG SỰ NHÂN DANH TRIỀU ĐÌNH.
NỖI KHỔ TÂM CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG.

Trong hai tháng sau ngày Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ, từ 05.7 đến 06.9.1885, các nhà sử học thường quy hết trách nhiệm cho Nguyễn Văn Tường. Cần thấy rõ, trong hai tháng ngắn ngủi ấy, Nguyễn Văn Tường hết bị quản thúc bởi lính Pháp, đại uý Schmitz [44], lại bị chi phối bởi De Courcy, Caspar, trực tiếp là De Champeaux, phó công sứ Hamelin. De Champeaux trở thành thượng thư Bộ Binh, Cơ mật viện đại thần của Triều đình Huế!

Về cái án tử hình của Đặng Hữu Phổ (con trai của phò mã Cát, đồng hương với Nguyễn Luận), Quốc sử quán triều Nguyễn [45] đã ghi rõ nội dung: Đặng Hữu Phổ chống việc phủ Thừa Thiên sức cho huyện Quảng Điền tăng cường quân số. Như thế, vô hình trung Đặng Hữu Phổ đã tiếp tay cho Pháp trong việc Pháp yêu cầu Triều đình không được tái vũ trang [46]. Về phía Pháp, dẫu vậy Pháp vẫn xem Đặng Hữu Phổ nổi loạn! Và chính Đặng Huy Xán, chú ruột của Đặng Hữu Phổ, đã lừa bắt ông, đem nộp cho giặc (theo một số tư liệu và Đặng phả)! Vụ Lê Trung Đình cũng như thế, nhưng ở dạng cụ thể khác. Lê Trung Đình lại tôn phù Tuy Lí vương [47], một nhà thơ chủ “hòa”, câu kết với Pháp thời Hiệp Hòa, bị đày vào Quảng Ngãi! Do việc tôn phù này, người ta tưởng Lê Trung Đình là kẻ cơ hội! Đúng như một câu trong sắc dụ của Từ Dũ lâu nay vốn do Nguyễn Nhược thị Bích viết thay: “Ba tháng bỡ ngỡ, bốn biển ầm vang” [48]! Đặng Hữu Phổ, Lê Trung Đình yêu nước, chống Pháp, nhưng lại quờ quạng, thiếu sáng suốt. Sự chỉ đạo của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường cũng chưa sâu sát, cụ thể từng “bước đi”. Khởi nghĩa hưởng ứng dụ Cần vương là đúng, nhưng chống Triều đình lúc Nguyễn Văn Tường còn giữ vị thế hay tôn phù Tuy Lí vương là sai (mặc dù Miên Trinh từ chối)! Bởi lẽ, Nguyễn Văn Tường vẫn “nhất dạng” với Tôn Thất Thuyết trong nhiệm vụ “kẻ ở”, “người đi”. Vả lại, quyết án Đặng Hữu Phổ là do triều nghị, Triều đình lại có cả De Champeaux ở vị trí trọng thần, chủ chốt, quyết định! Từ Dũ, Miên Định chuẩn y! Còn Lê Trung Đình lại do chính các tỉnh thần và Nguyễn Thân hội bàn, chém trước, báo cáo sau [49]! Do đó, không thể quy hết mọi việc Pháp nhân danh Triều đình để đổ cả cho Nguyễn Văn Tường!

Ngoài hai vụ việc trên, trước sức ép của Pháp, Nguyễn Văn Tường còn phải tự giằng xé và bị ngộ nhận bởi vài nỗi đau lòng khác.

Với chính trị, chúng ta phải thông cảm, thậm chí có những việc rất khổ tâm, cũng phải vờ chấp nhận để qua mắt giặc Pháp và phe chủ “hòa”, chẳng hạn như cùng Trương Quang Đản bốn lần viết thư cho Hồ [Văn] Hiển đưa Hàm Nghi – linh hồn của cuộc kháng chiến – về lại Huế trong khi Pháp vẫn tiếp tục lấn hiếp [50] [(9) và xem thêm chú thích (11)]. Thật lòng, Nguyễn Văn Tường cũng như Trương Quang Đản chỉ muốn rước vua Hàm Nghi về sau khi cuộc đánh phối hợp với đàm đã đạt được mục tiêu có giới hạn với sự nhượng bộ của Pháp, như Tôn Thất Thuyết đã nói với Phạm Hữu Dụng: “phải nên đoàn kết [thoả hiệp tạm thời – ct.] với quân Pháp; [Pháp – ct.] không lại lấn áp như trước, thì mới đón xe vua về” [51], đồng thời theo hai mật dụ vua Hàm Nghi (cùng Tôn Thất Thuyết) gửi về từ Tân Sở cho Nguyễn Văn Tường và hoàng tộc.

Nhưng cũng cần thấy rõ, sắc dụ về việc truy bắt Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, treo giải cho ai bắt được, chém được, chính Đồng Khánh về sau cũng xác nhận là do Từ Dũ ban hành (tất nhiên Từ Dũ cũng đành phải theo yêu cầu của Pháp!) [52].

Hơn nữa, sử học phải phân tách rõ “hư chiêu” và “thực chiêu”! Tất nhiên đó chỉ là hư dụ, chứ không phải thực dụ (thực dụ trong tình huống này phần lớn phải là mật dụ).
Tuy vậy, chúng ta cũng cần ghi nhớ, vào cuối tháng 8, đầu tháng chín 1885, còn có một số sắc dụ khác của Tam Cung (đứng đầu là Từ Dũ) với lời lẽ của những bản cáo trạng về sự câu kết giữa thực dân cố đạo, giáo dân với thực dân viễn chinh Pháp, đồng thời khẳng định “thù ghét [giặc Pháp – ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay [04 – 05.7.1885 – ct.]…” [53]. Trong tình huống kinh đô thất thủ, cực kì khó khăn, thất thế ấy, các sắc dụ tố cáo công khai giặc Pháp và tả đạo đó đã chứng tỏ một tinh thần đề kháng, bất khuất ở mức độ nhất định. Phải chăng chính Nguyễn Văn Tường đã tác động rõ rệt vào các sắc dụ khá đanh thép này? Chính bản án cáo thị của hai đầu sỏ giặc (De Courcy, De Champeaux) trong vài ngày sau đó sẽ làm sáng tỏ.

Ngoài ra, những gì Nguyễn Văn Tường làm được cho việc tái củng cố vương quyền nhà Nguyễn từ triều đình cho đến huyện xã, cho phong trào Cần vương là những chỉ đạo vừa thành văn, vừa khẩu lệnh, vừa công khai, vừa bán công khai, trong những lúc thoát khỏi đôi mắt cú vọ của bọn De Champeaux, bọn chủ “hòa” (thực chất là đầu hàng) (9), (10)…

Với chức năng, nhiệm vụ lịch sử vừa thoả hiệp vừa đấu tranh của mình, Nguyễn Văn Tường đã bị bọn thực dân cố đạo căm hận, báng bổ:

“Puginier, giám mục ở Bắc kì, và Camelbeck, giám mục ở Quy Nhơn, đã mở một chiến dịch điên cuồng tấn công chống Nguyễn Văn Tường mà theo họ là kẻ thù lớn nhất của người Pháp và đồng thời cũng là người An Nam điêu toa nhất [(!?!) nói với Pháp thế này, lại làm thế khác – ct.] mà người ta có thể gặp… Sự hợp tác của ông ta và De Courcy là một mưu mô [của ông ta – ct.] nhằm đánh lừa người Pháp” [54].

Trong một mật dụ từ Tân Sở gửi về cho hoàng tộc (07.6 Ất dậu [18.7.1885]), sau khi hiểu rõ những gì Nguyễn Văn Tường đã tiến hành ở Huế, Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) đã viết:

“Nay đã có phụ chính huân thần Nguyễn khanh [tức Nguyễn Văn Tường – ct.] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn; huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định” [55].

Đó là mật dụ gửi cho hoàng tộc, Hàm Nghi (cùng Tôn Thất Thuyết) đã viết về Nguyễn Văn Tường như vậy. Và, đúng ra, mọi sách lược (xây dựng thành luỹ Tân Sở cùng những phương án kháng chiến, đánh – đàm, với nhiều mức độ khác nhau, tuỳ tình hình… ) đều do Nguyễn Văn Tường góp phần vạch ra, từ năm 1866 [56], Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) chỉ nhắc lại ba phương án thích hợp. Điều đáng lưu ý trong mật dụ này là Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã rất thấu hiểu và chia sẻ nỗi khổ tâm xé ruột của Nguyễn Văn Tường trong nhiệm vụ lịch sử với vai trò đàm phán đã được phân công, từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ.

Nỗi khổ tâm xé ruột của Nguyễn Văn Tường còn phải kéo dài đến hơn một tháng rưỡi sau, tính từ ngày vua Hàm Nghi gửi mật dụ về Huế, 07.6 Ất dậu (18.7.1885)!
Cũng cần phải khẳng định: Những nỗi đau lòng của Nguyễn Văn Tường là do phải thực hiện nhiệm vụ được giao phó của vua Hàm Nghi và của nhóm chủ chiến triều đình Huế, hay nói đúng hơn, nhiệm vụ ấy là do vận mệnh lịch sử của đất nước ấn định cho Nguyễn Văn Tường:

“Y [Cô-ra-xy (De Courcy) – ct.] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến Triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi [Nguyễn Văn Tường – ct.] là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm; kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lý thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc” – ct.], phàm những khoản gì bách thiết, chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho hai nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này ta mệnh cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư, nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.

Nếu không như thế thì các miếu xã lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ cho khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.]. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời, rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là Triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh được thua vậy.

Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa, tài lược, không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa, kháng chiến quyết liệt – ct.], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp – ct.] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] nên nghĩ cho kỹ nhé, có muốn nên tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét cũng chẳng hại gì”
[57].

Đó là các phương án tuỳ theo mức độ bức hiếp của thực dân Pháp và tả đạo. Nói rõ hơn, trong tình huống ấy, có ba phương án:

Một là, nếu Pháp và tả đạo tuân thủ “hoà” ước 1874, hay ít ra, “hoà” ước 1884, không tăng cường sự lấn hiếp, nhà vua và Tôn Thất Thuyết sẽ về lại Huế.

Hai là, nếu Pháp và tả đạo xé bỏ “hoà” ước 1884, vẫn tăng cường sự lấn hiếp ở mức độ có thể chấp nhận được, nhà vua và Tôn Thất Thuyết sẽ ở lại Tân Sở nhưng không đẩy mạnh sự phát động phong trào Cần vương bằng vũ trang, và giao phó kinh thành Huế cùng sự an nguy của hoàng tộc cho Nguyễn Văn Tường.

Ba là, nếu Pháp và tả đạo quyết xé bỏ “hoà” ước 1884, quyết tăng cường sự lấn hiếp đến mức không còn chút chủ quyền nào để có thể mưu tính cho đại cục về sau, nhà vua và Tôn Thất Thuyết sẽ phát động mạnh mẽ và rộng khắp phong trào kháng chiến Cần vương, kể cả Bắc kì vốn đã bị “bảo hộ”.

Ở mật dụ tiếp theo, vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) vẫn tin tưởng Nguyễn Văn Tường đàm phán với mục tiêu “vụ [:nhằm – ct.] được như thường” (ít ra là như “hoà” ước 1884):

“… Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất. Nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời, thế là lành lắm, tốt lắm. Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay, càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ. Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh [Nguyễn Văn Tường – ct.] sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường. Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng…” [58].

Thế và lực nước ta bấy giờ là không thể đương đầu với Pháp, tả đạo cùng liên minh các nước thực dân của chúng (Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nga …), trong một bối cảnh chung ở Á, Phi, Mỹ la tinh là hoàn toàn bế tắc, nhất là khi thế trận toạ sơn quan song hổ đấu (chiến tranh Pháp – Hoa, 1883 – 1884) đã hoàn toàn thất bại về phía Trung Hoa. Bởi vậy, cho nên, sắc dụ của vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về với khí thế và mục tiêu đấu tranh đành phải hạn chế như thế. Phải nhìn nhận mục tiêu đề ra không thể vượt quá khả năng của hiện thực lịch sử, mà phải chờ thời cơ trong nỗ lực tạo ra thời cơ (gồm thế và lực mới) – “gặp hội đổi thay”! Với quan điểm lịch sử – cụ thể, mọi nhận định đều phải đúng mức.

Nếu không thấy rõ mục tiêu có hạn chế với phương thức quân sự – ngoại giao vừa đánh vừa đàm (Tôn Thất Thuyết – Nguyễn Văn Tường phối hợp), phương thức đàm phán vừa thoả hiệp vừa đấu tranh (Nguyễn Văn Tường đảm nhiệm), không phân tách rõ “hư chiêu” và “thực chiêu”, với các phương án trên, sẽ không hiểu được thời đoạn lịch sử hai tháng sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ (05.7 – 06.9.1885, Ất dậu)! Trong đó, sự phối hợp nhiệm vụ lịch sử có tính quyết định nhất vẫn là: Tôn Thất Thuyết (“đường núi vạn trùng lo kiệu biếc”) – Nguyễn Văn Tường (“lòng tôi một dạng giữ sân son”) .

3.c. THÁI ĐỘ CHÍNH TRỊ "NHẤT DẠNG" VỚI LẬP TRƯỜNG KIÊN ĐỊNH CHỐNG PHÁP, KHÔNG CHẤP NHẬN "BẢO HỘ" CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG QUA CÁC BẢN KẾT ÁN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ NGỤY TRIỀU ĐỒNG KHÁNH.

Đại Nam thực lục, chính biên, từ tập 36 trở về trước, dù ở trong xiềng xích ý hệ bảo hoàng, vẫn thể hiện được tinh thần chống Pháp, lập trường yêu nước. Quốc sử quán đã ghi rõ [59] :

“Đô thống Đại Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy – ct.] bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định.

Cứ theo lời cáo thị của khâm sứ Tham-bô [De Champeaux – ct.] nói: Văn Tường từng đã chống cự nước ấy [nước Pháp – ct.] thực đã nhiều năm. Từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chỉn [:vốn; vẫn – ct.] lại đổng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy [nước Pháp – ct.]; và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp – ct.] cho hai tháng [nhằm để – ct.] lo liệu việc nước cùng Bắc kì cùng được lặng yên vô sự; [kì thực – ct.] đến ngày 27 tháng ấy hết hạn, mà các tỉnh tả kì về phía nam (9), (10), có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống ấy định án, ưng [:nên; phải – ct.] kết tội lưu.

Hôm ấy chở đem Văn Tường đến cửa biển Thuận An. Buổi chiều Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đi tàu thủy Pháp cũng về đến cửa biển ấy.

(Thuyền Pháp chở Văn Tường đến Gia Định, sau chở gồm cả Phạm Thận Duật, Lê Đính đem về nước ấy [thuộc địa Tahiti – ct.]; Thận Duật trong khi đi đường bị ốm chết ở trong tầu, buông xác xuống biển) …”.


Đó là bản kết án của thực dân Pháp [60]!

Bản kết án cáo thị ấy đã làm bùng lên một cuộc “sát tả” dữ dội tại Quảng Trị từ ngày 06.9.1885 (28.7 âl., Ất dậu) [61]!

Và đây là quốc thư của tên vua tay sai, bù nhìn Đồng Khánh, có chi tiết vu vạ, đổ tội không đúng sự thật, có chi tiết khẳng định đúng (đối chiếu với ngôn ngữ tường minh ở ĐNTL.CB., cuối tập 35 và trọn tập 36, sđd.). Lời lẽ ấy – giọng lưỡi của y:
“Quyền thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết […]. Ngày 23 tháng 5 năm nay, kinh thành thất thủ, xe tiên đế dời đi, hai người ấy thực là căn nguyên của tai vạ […]” [62] (9).

Đình thần, nói theo cách nói của Trần Trọng Kim, “nhiều người đã biết theo chính sách bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn” [63]. Đình thần ấy cùng Tôn nhân phủ kết án (!):

“Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo” [64] (9), (11).

Lời dụ và cáo thị của Đồng Khánh và khâm sứ Pháp cùng các khâm sai của Triều đình, trong chiến dịch triệt hạ uy tín nhóm chủ chiến (in ra, niêm yết khắp nơi):

“Tóm lại, là do tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lộng quyền […]. Hai quyền thần ấy lần này đón lập, nhiều việc man muội [! – ct.], trước thì lợi về dễ khống chế, sau chỉ mưu cho bản thân [! – ct.]; bỗng dưng gây hấn [! – ct.], nghiêng đổ tôn xã, bắt hiếp vua chạy đi; Nguyễn Văn Tường liền quỷ quyệt [?mưu trí! – ct.] đem thân quay về thú tội [! – ct.] với quan đô thống Đại Pháp, rồi đã bị tội lưu, Lê Thuyết [bị đổi họ – ct.] thì sống một cách tạm bợ trong rừng. May mà nước Đại Pháp có lòng nhân thứ [! – ct.], giúp ta chấn hưng [! – ct.] được nước đã mất [! – ct.], nối lại được thế đã đứt, nước nhà đó mới còn [! – ct.]” [65] (9).

Đúng là giọng lưỡi hèn hạ, đánh giá ngược một cách trắng trợn tất cả!

“Duy trẫm tin là các sĩ phu, thực tình là nhận nhầm, chứ không có lòng làm loạn; Triều đình đã đem đầu mối họa loạn, là tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết gây ra, nói rõ ràng với quan Đại Pháp, đã tin không ngờ, để cho Triều đình ta phải xử trí ngay, cho lương giáo đều được yên ổn” [66] (9).

Cũng như cách thổi phồng, bịp bợm, hàm hồ của các tên thực dân, gián điệp đội lốt tôn giáo, khái niệm, con số “dân giáo” của Đồng Khánh, Hector và các khâm sai cũng thế. Chúng muốn biến cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, bảo vệ văn hóa dân tộc thành cuộc chiến tranh tôn giáo, còn cuộc xâm lược của thực dân Pháp thành “thánh chiến”, “thập tự chinh” (bấy giờ nhân dân, sĩ phu gọi thập giá là thập ác), nhằm kích động giáo dân ở “mẫu quốc”, kích động cả Tòa thánh La Mã (Rome)!

Thực ra, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng phối hợp mệnh lệnh, trong tình huống buộc lòng phải đề ra kế sách “chia tách triều chính” (đánh và đàm), chỉ nhằm vào thực dân Pháp, bọn lính lê dương (légionaire étrangère), bọn cố đạo làm gián điệp cho Pháp, bọn Việt gian, trong đó có một bộ phận không ít là “dữu dân” đích thực.
Sự kiện đó, ngay cả trước khi Nguyễn Văn Tường bị lưu đày, Từ Dũ đã hiểu ra, và bằng ngôn ngữ tường minh, đã chỉ rõ nguyên nhân đồng thời đánh giá đúng, ít ra là ở hai điểm sau đây:

“Từ điều ước tái định [Dupré, 1874? Patenôtre, 1884? – ct.] đã được phân minh, khiến nước Pháp trước tự bại hoà gây biến, thì phàm ai ở đất vua, cũng đều thù ghét [giặc Pháp – ct.], ai bảo là không nên. Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay…” [67], gồm cả hiện thực Cần vương, kháng chiến, máu lửa sau đó…

Tuy thế, cáo thị niêm yết của triều Đồng Khánh và Hector cùng các khâm sai cố nhiên vẫn là luận điệu với cách đánh giá ngược theo tiêu chí gọi giặc bằng ngài, gọi người yêu nước bằng nghịch, nghĩa cử quật khởi là làm loạn:

“Nay Lê Thuyết, trốn tránh ở rừng gập ghềnh, một thân tuy nhỏ, mà coi đất trời như còn hẹp; Nguyễn Văn Tường thì đã bị đi đày; tức là trời trừ kẻ tật ác […]. Không ngờ bọn ngươi [tức là các sĩ phu, nhân dân – ct.] theo ý làm liều, […] kháng cự mệnh lệnh Triều đình, cam tâm hết lòng trung với kẻ thù [tức là Hàm Nghi, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, nhưng theo mạch văn, thì chỉ nhắm đến hai phụ chính – ct.], từ Hải Vân trở vào nam, không chỗ nào là không loạn [khởi nghĩa – ct.], rất đáng quái lạ; sao không xem châu Hoan, châu Diễn, Quảng Bình, Quảng Trị, mượn tiếng là xướng nghĩa, cần vương, đều đem thân bón cho đồng cỏ, mười nhà thì chín nhà hết sạch; còn những kẻ lọt lưới, thì bị mưa độc, khí núi…” [68].

Những cứ liệu trên, nhất là lòng trung thành của sĩ phu và nhân dân trong phong trào Cần vương đối với Nguyễn Văn Tường, đã khẳng quyết không hề có Dụ Cần vương số 2 bao giờ [69]!

Đúng như nhận định của De Champeaux, uy tín, tầm ảnh hưởng của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến là rất lớn. Thảo nào chúng tìm cách li gián, khích tướng, mưu toan lợi dụng, và vì không lợi dụng được, chúng lại bôi nhọ đến thế, thậm chí còn bịa tạc ra cái được gọi là “Dụ Cần vương số 2”! Đối với chúng ta, hai bản kết án chung thẩm của De Courcy, De Champeaux, của Đồng Khánh, Triều đình tay sai, bù nhìn, chính là lời tổng kết trọn vẹn những cuộc đời đấu tranh kiên cường mà linh hoạt, của Nguyễn Văn Tường và của nhóm chủ chiến trong sự nghiệp chung của bao sĩ phu, của nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược, gồm cả hai tháng và sau đó, từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23. 5 Ất dậu, 1885).

3.d. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP NHẤT QUÁN, LIÊN TỤC CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG NGAY TRONG NHỮNG NGÀY THÁNG BỊ LƯU ĐÀY Ở CÔN ĐẢO, TAHITI, QUA BÀI VIẾT CỦA H. LE MARCHANT DE TRIGON.

Cũng rõ ràng Nguyễn Văn Tường, suốt cả quãng đời đấu tranh với thực dân Pháp, từ đầu đến lúc trút hơi thở cuối cùng ở Papeete, thủ phủ xứ đảo Tahiti, nơi chốn lưu đày các nhà chính trị chống Pháp, ông luôn sôi sục một mối căm thù sâu sắc đối với bọn thực dân cướp nước mình. Chính kẻ đứng ở phía đối phương, H. Le Marchant de Trigon, thanh tra chính trị và hành chính An Nam, người Pháp, đã viết [60]:

“Than ôi, ngay ngày hôm sau [tức là ngày kế tiếp ngày 29.8.1875 – chúng tôi căn cứ vào bài viết để chua rõ (:TXA. ct.)], những thủ đoạn phá rối có hệ thống của Nguyễn Văn Tường (12) kéo dài cho đến ngày chiếm cảng Thuận An [8.1883 – ct.], và còn về sau này, cho đến khi đày kẻ thù không đội trời chung của chúng ta, và trong thời gian [bị lưu đày – ct.] đó, [Nguyễn Văn Tường – ct.] chẳng chịu hiểu biết gì cũng chẳng chịu quên gì”.

Kẻ thù đã viết như thế về Nguyễn Văn Tường (Kì Vĩ bá), gọi quá trình đấu tranh chống Pháp trên mặt trận chính trị, ngoại giao của ông một cách khiếm nhã như vậy: “những thủ đoạn phá rối có hệ thống”! Thực ra, đó là một quá trình đấu tranh cam go đầy mưu trí, liên tục, nhất quán, kiên định, bền bỉ suốt mấy chục năm trời làm quan. Và quả thật, ông là “kẻ thù không đội trời chung” của thực dân Pháp cho đến lúc bị đày, bị chết. Làm sao chúng mua chuộc được ông, khiến ông bùi tai quên đi mối căm thù giặc Pháp canh cánh trong lòng và nỗi đau đáu tìm cách cứu nước, cứu dân, quét sạch bọn chúng, ngay trong thời gian bị đày, ngay trong phút cuối cùng của đời mình, ngày 30.7.1886!

Đó chính là cơ sở lịch sử của điều Nguyễn Văn Tường muốn gửi lại nghìn sau trong bốn chữ: “nhất dạng” và “u trung”:

“Đường núi vạn trùng lo kiệu biếc
Lòng tôi một dạng giữ sân son
Đúng? sai? Ấy gửi nghìn thu luận
Theo nước – phò vua, đâu nặng hơn?”

“Lòng trung sâu kín, sau ai tỏ ?
Tổ quốc, vua, dân, đâu nặng hơn?”
[71]

Bốn chữ “nhất dạng”, “u trung” đã được bảo chứng bằng sự thật lịch sử!

4) SỰ DỰNG ĐỨNG CHUYỆN BỊA, XUYÊN TẠC SỰ THỰC LỊCH SỬ, NHẰM MỤC ĐÍCH TRIỆT HẠ UY TÍN CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG VÀ NHÓM CHỦ CHIẾN, ĐÓ LÀ THỦ ĐOẠN TUYÊN TRUYỀN CỦA THỰC DÂN PHÁP, BỌN TẢ ĐẠO TRONG THIÊN CHÚA GIÁO.
PHÊ PHÁN CÁC TƯ LIỆU: LẬP TRƯỜNG, QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ; LƯỢNG THÔNG TIN.
KẾT LUẬN VỀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG.


“Tổ quốc, vua, dân, đâu nặng hơn?”. Lòng trung của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến Triều đình Huế – kiên quyết chống giặc và bọn phản quốc – đã làm sáng chói chữ trung chân chính, rất cổ điển và rất truyền thống.

Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến yêu nước Triều đình Huế đã chọn lựa đúng trong bi kịch ở đỉnh điểm mâu thuẫn đối kháng phản quốc – ái quốc, 1883. Hai năm sau, ở điểm đỉnh tột độ của mâu thuẫn đối kháng địch – ta dữ dội hơn, họ cũng đã trả lời đúng câu hỏi: “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”, trong sự phân công cho đêm Kinh Đô Quật Khởi và trong việc giao nhiệm vụ sau đêm lịch sử 22 – 23.5 Ất dậu (chỉ từ 05.7.1885 đến 06.9.1885! Tiếc thay!).

Người nông cạn hoặc cam tâm cầu “hòa”, thực chất là bán nước cầu “vinh” (!), chí ít là cầu an, cứ mãi lừa mình dối người, cho rằng Nguyễn Văn Tường “tham lam”, “tàn nhẫn”, “quỷ quyệt”, Tôn Thất Thuyết “ít học”, “hèn nhát”, “hiếu sát” và cũng “tham lam”, “quỷ quyệt”, Phạm Thận Duật “đào ngũ” (“bỏ cuộc”)… Những kẻ nông cạn, cầu “hoà” (!) đó, vô tình hoặc chủ ý rơi vào luận điệu tuyên truyền vừa mị dân, vừa độc ác: “đập tan tành” uy tín của những trung thần sáng suốt, hết lòng vì nước, vì dân và vì triều Nguyễn; và trước mắt thuở bấy giờ là “đập tan tành” quốc kế “chia tách triều chính” nhưng vẫn “nhất dạng” của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, nhằm dập tắt phong trào Cần vương (13) (xin xem lại: chú thích (11)).

Nguyễn Văn Tường dũng cảm, mưu trí và nhận một kết quả bi đát, đậm tính hi sinh cao cả hơn Tôn Thất Thuyết nhiều lần. Nguyễn Văn Tường còn là một Nguyễn Trãi, tuy bi kịch mỗi người một khác – không có quan hệ yêu đương gì với Học phi (bà được phong hoàng thái phi như mẹ ruột của Hiệp Hòa, vì Hiệp Hòa đã tạo ra tiền lệ).

Tư liệu được viết bởi thực dân, tay sai (15), bởi những người bị bó buộc bằng xiềng xích bảo hoàng, kể cả những người yêu nước thiển cận, vì thiển cận mà sa vào âm mưu li gián (âm mưu li gián cả sau ngày 23.5 Ất dậu,1885) của Pháp, của các tên thực dân đội lốt giám mục, linh mục, cần được đọc một cách tỉnh táo với sự phân tích, đãi lọc khoa học. Chỉ trong việc phế lập từ 1883 đến 1884, cũng đã lắm vấn đề!

Tuy nhiên, cuối cùng, sự thật lịch sử đã được sáng tỏ, kể cả chữ trung trong quan hệ đồng chí.

Sự thật lịch sử đã sáng tỏ, ít ra là từ dưới triều vua Thành Thái, có điều, có lắm người không có điều kiện nhìn thẳng vào sự thật lịch sử, vào chân dung cao đẹp, anh hùng bi tráng đích thực của Nguyễn Văn Tường và nhóm chủ chiến, mặc dù chỉ là những chân dung chưa tỏa sáng hết độ sáng, bởi bộ sử, dẫu là tín sử, vẫn bị nhuộm màu sắc bảo hoàng (tập 27 – tập 36), rồi màu sắc phản quốc, với cách đánh giá ngược (tập 37 – tập 38)! Đại Nam thực lục, chính biên kỉ đệ tứ (1847 – 1883) và kỉ đệ ngũ (1883 – 06.9.1885) phải cất vào kho sử và phát hành hạn chế, trong khi đó, kỉ đệ lục (06.9.1885 – 1888) lại bị truyền bá khắp cả nước, dùng để giảng dạy trong nhà trường thực dân nửa phong kiến **!

Hiện nay, các nhà nghiên cứu sử học đã tiếp cận được nhiều nguồn tư liệu, từ tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn, tư liệu của thực dân, tay sai, gián điệp đội lốt cố đạo Thiên Chúa giáo (gồm cả tư liệu trước đây chưa công bố) (15), đến tư liệu của những người khác chính kiến, khác bối cảnh, khác lực lượng ở những năm cuối thế kỷ XIX, dăm năm đầu thế kỷ XX, và cả sách vở suy diễn, xuyên tạc sau đó (gồm cả thiển cận, ngộ nhậân). Trong đó, Đại Nam thực lục, chính biên (IV, V, VI) và Châu bản là tư liệu căn bản, quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất, mặc dù quan điểm chép sử của Quốc sử quán triều Nguyễn từ chỗ yêu nước, chống Pháp, chống tả đạo, cố nhiên vẫn bảo hoàng, ít nhiều ngu trung (hai kỉ đệ tứ, đệ ngũ), đã đi đến chấp nhận tiêu chí đánh giá ngược, gọi giặc xâm lược bằng ngài, gọi nghĩa sĩ là giặc; chống người yêu nước chân chính (kỉ đệ lục).

Như vậy, từ nhiều nguồn tư liệu, với sự xác định tư liệu chuẩn cứ, với sự xới lật, đãi lọc các tư liệu khác, dưới ánh sáng khoa học cách mạng, tiên tiến, dân tộc và hiện đại (mà quan điểm duy vật, lịch sử – cụ thể là then chốt), chúng ta đều có thể đi đến một kết luận nhất trí về trọn cuộc đời hoạt động của Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường, một nhân cách chói sáng, một nhà hoạch định chiến lược, chiến thuật, một nhà chính trị, ngoại giao tài giỏi, giàu mưu trí, một chiến sĩ ở vị trí lãnh đạo cao, đích thực có phẩm chất anh hùng, biết chiến đấu và biết hi sinh một cách dũng cảm. Đó không phải là lời khẳng định suông rỗng, nếu chúng ta thật sự công tâm trong nghiên cứu, suy ngẫm.

Và có thể khẳng định bi kịch của Nguyễn Văn Tường là bởi sáu chữ: bình Tây, sát tả, trá hàng và bởi câu thơ “xã tắc, quân, dân, thục trọng khinh?”.

Hai câu đối kính viếng linh cữu Nguyễn Văn Tường đã thể hiện cảm nghĩ của người đương thời lúc bấy giờ về kế sách của một lãnh tụ đã nắm giữ vận mệnh Đất nước và đã bị giặc Pháp xâm lược lưu đày:

Quốc kế thị phi lân sử định
Thiên phương sinh tử nhạn thư điêu!
[72]

Kế sách [cho] Đất nước, đúng [hay] sai,
[sẽ do] tín sử [sử có điềm con lân]
định luận
[Ở] phương trời, sống [hoặc ] chết, thư xa
[buộc vào chân nhạn cứ] vật vờ
[trong gió]


Kế nước đúng sai trang sử quyết
Phương trời sống chết cánh hồng chao!


Tất nhiên lịch sử đã ghi nhận. Và Nguyễn Văn Tường không chịu trách nhiệm sau khi ông đã bị lưu đày biệt xứ, từ ngày 06.9.1885, trước vận mệnh của Tổ quốc.

Mặt khác, Nguyễn Văn Tường còn là một nhà thơ. Ông không những có tài ngôn ngữ, trong các văn bản ngoại giao, chính trị, trong đấu tranh ở các cuộc hội nghị như vua Tự Đức đã gián tiếp khen ngợi khi so sánh với Nguyễn Tư Giản [73], Nguyễn Văn Tường còn là một nghệ sĩ của nghệ thuật ngôn từ, có nhiều câu, nhiều bài đạt đến mức tinh diệu (lời châu phê của vua Tự Đức ở Thi tập của ông).

Chiến đấu ở mặt trận với gươm đao súng đạn, đấu tranh trong thương thuyết ngoại giao và trên trường chính trị, cùng với việc làm thơ, tất cả chỉ là một, đều khởi từ trái tim yêu nước, thương dân, lòng căm thù giặc và bọn tay sai.

TRẦN XUÂN AN


1. CHÚ THÍCH bài NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886) VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7, 1885):

(1). “Giải triều…” còn có nghĩa là “Tan tác triều đình…”.
Bài thơ này đã được truyền tụng từ sau ngày Kinh Đô Quật Khởi (23.5 Ất dậu, 1885), như một mật lệnh phối hợp giữa phong trào Cần vương vũ trang và những người ở lại. Sau đó, bài thơ chỉ được ghi lại bốn câu cuối với bản dịch không rõ ý, bị xuyên tạc (xem Phan Trần Chúc, “Vua Hàm Nghi”, Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951; Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 83 – 84). Do bài thơ được truyền khẩu, nên có một vài chữ bị dị biệt ở các dị bản, nhưng ý nghĩa vẫn không thay đổi.

Vì “lí do chính trị” dưới chế độ thực dân, nhiều sách báo in lại, thường chỉ trích dịch bốn câu cuối.

Theo ông Nguyễn Xuân Quế (hậu duệ Nguyễn Văn Tường), cuối bài “Giải triều…”, có một câu chú thích thêm với hai chữ “Mạnh Tử”, ý muốn nhắc đến câu kinh điển của Nho giáo: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý, Đất nước là thứ nhì, nhà vua chỉ đáng xem nhẹ).

Bối cảnh lịch sử cũng là cơ sở cho việc mạo muội khảo dị, hiệu đính, nhằm xác định đúng bản gốc, nguyên tác của Nguyễn Văn Tường.

Sau đây là bản dịch nghĩa:

“Ba chục năm qua, uổng phí bao nhiêu sự từng trải!
Nửa đêm, gian tả [hoặc: vô cớ]! [Giặc Pháp] ép nỗi buồn
nẩy sinh
Cờ xổ ba màu [“tam tài”], sấm sét quyền biến
Kẹp-tra-khảo theo cặp roi, chó gà kinh sợ
Đường núi vạn trùng, lo lắng cho kiệu vua xanh biếc
[kín đáo]
Lòng kẻ bề tôi một dạng, thương-mến-không-nỡ-rời-bỏ
sân son
Đúng, sai, điều ấy, gửi nghìn thu sau [định luận]
Đất nước, nhà vua, đâu là trọng, là khinh?”
.

[Vô đoan: có hai nghĩa:vô cớ, hoặc: không ngay thẳng; già: cái kẹp dùng để tra khảo; luyến: thương mến không nỡ rời bỏ].

Xin xem cụ thể hơn ở Phần ngoài Thi tập thuộc sách này.

(2). Tập tâu Nguyễn Văn Tường gửi Tam Cung ở Quảng Trị đã bị Pháp duyệt (viết niên hiệu Hàm Nghi nhưng đóng ấn quan phòng của Pháp). Đó chỉ là tập tâu đối phó. Chúng tôi xin nhấn mạnh: Do đó, nội dung chỉ có tính chất đối phó, trước hết và chỉ là đối phó với Pháp, nên dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng với sự thật, không thể hiện hoàn toàn đúng tư tưởng, ý nghĩ Nguyễn Văn Tường trong mối quan hệ đồng sự, đồng chí với Tôn Thất Thuyết ở “cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay…” và những công việc sau đó. Nội dung như sau:

- Nguyễn Văn Tường cho rằng Nguyễn Văn Tường đã bị Tôn Thất Thuyết lừa dối [1. Nguyễn Văn Tường không biết việc Tôn Thất Thuyết đánh úp; hoặc đúng hơn là: 2. Nguyễn Văn Tường không ngờ Tôn Thất Thuyết không chịu cho đưa Hàm Nghi về như kế hoạch đã bàn].

- Tam Cung già cả, vua Hàm Nghi nhỏ tuổi, không đủ sức chịu đựng gian khổ ở chốn rừng sâu nước độc [nơi mà Nguyễn Văn Tường có gần 12 năm làm tri huyện, bang biện; chưa kể 5 năm tiễu phỉ ở núi rừng biên giới phía bắc, cũng chốn rừng sâu nước độc như thế].

- Hơn nữa, không thể giao cho Pháp và côn đồ kinh thành, lương miếu [chúng có thể tôn lập lên bất kì tên vua bù nhìn nào].

- Do đó, Nguyễn Văn Tường phải tuân theo sắc văn (ý chỉ) của vua, của Tam Cung mà ở lại Huế để lo việc giảng “hòa”, để cứu vãn tình thế và ngăn chặn sự cướp phá, tàn sát ở kinh thành; bởi lẽ khác, Nguyễn Văn Tường tự nguyện cùng với non sông xã tắc mà mất còn, không dám lìa bỏ [Tôn Thất Thuyết sẽ sang Trung Hoa].

Chúng tôi mạn phép làm rõ nghĩa hơn bằng các chữ trong dấu móc vuông: [ ]. Xin xem nguyên văn: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 224 – 225.

Xem thêm: TS. Cao Huy Thuần, “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914), Nguyên Thuận dịch, Nxb. Hà Nội, 2003, tr. 398, 452:

Qua một số tư liệu lưu trữ chưa công bố trước đó, TS. Cao Huy Thuần phân tích sự khác biệt chủ trương giữa Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết so với phe chủ “hoà”. Sự thật lịch sử đó đã bị Cao Huy Thuần diễn đạt theo cách của ông ta như sau:

“Sự xâu xé, chia rẽ của triều đình Huế từ khi vua Tự Đức mất, đã làm dễ dàng cho sự thành công của Pháp. Vì tham vọng cá nhân, một số quan lại tính đến chuyện hợp tác với người Pháp: chẳng hạn Nguyễn Trọng Hợp, một trong ba quan nhiếp chánh [:phụ chánh Trần Tiễn Thành – TXA. ct.] thời kì không vua [chưa lập vua nối ngôi – ct.] hay Nguyễn Hữu Độ [ở Bắc kì – ct.]. Hai quan nhiếp chánh [:phụ chánh – ct.] khác, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, lại chủ trương kháng chiến, nhưng cả hai đều lo bảo tồn quyền bính [:quyền lực để thực thi đường lối chủ chiến, “thế cỡi trên lưng hổ” – ct.]…” (tr. 398).

“… Với sự độc lập tương đối mà Trung kì được hưởng, họ sẽ dễ đuổi người Pháp ra khỏi Bắc kì, nếu người Pháp chỉ thiết lập chế độ bảo hộ ở đó, hơn là nếu họ tự giao trọn quyền sở hữu cho Pháp [làm thuộc địa, như Nam kì – TXA. ct.]” (tr. 452).

Cao Huy Thuần chú thích cho câu trên: “[Căn cứ vào: – ct.] Lanessan, thư riêng và mật, gởi bộ trưởng Hải quân, 26/9/1894, Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, A 30 (101), hộp 21, theo ý chúng tôi [:Cao Huy Thuần – TXA. ct.], rất có thể rằng quan phụ chánh Nguyễn Văn Tường có ý bảo tồn Trung kì để sau này cố lấy lại Bắc kì nhờ vài sự giúp đỡ của Trung Quốc; nhưng có đủ lí lẽ để tin rằng mẹ của vua Tự Đức [thái hoàng thái hậu Từ Dũ – ct.], khi đề nghị như thế với Harmand, [lúc kí “hoà” ước Quý mùi 1883 – ct.] chỉ nghĩ đến việc bảo vệ an ninh cho nhà Nguyễn” (tr. 452).

Ở đây, như trên đã nói, chúng tôi (TXA.) trích dẫn từ cuốn sách của TS. Cao Huy Thuần chỉ nhằm chứng minh sự khác biệt chủ trương chính trị giữa Nguyễn Văn Tường (chủ chiến) với Từ Dũ (phe chủ “hoà”), chưa kịp đánh giá sự phân tích và cách diễn đạt của Cao Huy Thuần theo lập trường của ông ta.

(3). Về tư liệu A. Delvaux sử dụng trong bài viết (1916):

“Lịch sử sơ lược mà tôi kể ra đây về cái nhà [Tòa Khâm ở Huế – TXA. ct.] và những người đã chiếm cứ ngôi nhà ấy [các khâm sứ thực dân Pháp – ct.], hầu như độc nhất đầu tiên là dựa trên các tài liệu chính thức của Nhà nước [Chính phủ Pháp và chính quyền “bảo hộ” – ct.], được bổ sung bằng những kỉ niệm của đức giám mục Caspar, là nhân chứng sành sỏi và nhiều khi còn là diễn viên quan trọng của những sự cố đã xảy ra thời kì ấy tại Huế”.

Trích: Delvaux, bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên…”, NNBCĐH. (BAVH., 1916), tập 3, nhiều người dịch, Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 29.
Delvaux còn viết thêm các bài:

- Pháp đánh chiếm Huế (NNBCĐH., [BAVH., 1920], tập VII, Bửu Ý, Phan Xưng dịch, Nxb. TH., 2001, tr. 338 – 375). Đây là một bài viết không chủ yếu căn cứ vào tư liệu gốc (văn bản, văn kiện chính thức) của Pháp, mặc dù có phụ chú (như bút phẩm của Silvestre …), mà lại dựa vào vè Thất thủ kinh đô với thủ thuật xuyên tạc phi lí và trắng trợn bài vè ấy (Nguyễn Văn Tường lại câu kết với Nguyễn Hữu Độ!!! [*]), và dựa vào cái gọi là ý nghĩ quần chúng do cố đạo Henry de Pirey bịa tạc ra, hoặc do tuyên truyền của các tên linh mục thực chất là thực dân này trong quần chúng giáo dân mà lan truyền thành dư luận (H. de Pirey, bài “Một thủ đô phù du: Tân Sở”, NNBCĐH. [BAVH., 1914], tập I, Đặng Như Tùng dịch, Bửu Ý hiệu đính, Nxb. TH., 1997, tr. 224 – 234). Ý đồ của Delvaux ở bài viết lộ rõ: a) Một người sáng suốt như Nguyễn Văn Tường không thể cùng quan điểm “sát tả” như Tôn Thất Thuyết, người bị chúng cho là nóng nảy, võ biền; bởi lẽ chúng không thể bôi nhọ Nguyễn Văn Tường là “ít học” được! ; b) Một người đã “bình Tây sát tả” như Nguyễn Văn Tường, trước đó chúng đã xác quyết như thế, thì không thể là người yêu nước thương dân được, mà phải bôi nhọ ông là người vừa chống Pháp, vừa phản dân hại nước; bởi lẽ chúng buộc phải nói ngược rằng, giáo dân theo Pháp, chịu Pháp “bảo hộ” mới là yêu nước thật sự (sic!)! Ở bài viết này, Delvaux tỏ ra thiếu trung thực hơn bài viết vào năm 1916 (bđd., sđd.).

- Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam (NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 478 – 485). Đây là một bài viết có nhiều điểm xuyên tạc. Chúng tôi đã làm rõ ở phần chính của bài nghiên cứu của chúng tôi. Tuy vậy, trong bài viết này, Delvaux đã dẫn nguyên văn đoạn trích từ Công báo thuộc địa Tahiti, ra ngày 05.8.1886, tr. 202; giấy khai tử trích sao từ sổ hộ tịch của xã Papeete, số 60, ngày 30.7.1886; quyết định cho phép di chuyển thi hài Nguyễn Văn Tường về An Nam, kí ngày 09.12.1886 (quyết định đã đăng trên Công báo thuộc địa Tahiti cùng ngày); ngoài ra, còn có tên con tàu là Le Bourayne, tên chỉ huy tàu là Willemsens; đặc biệt là ảnh chụp Nguyễn Văn Tường lúc chết… Bài báo này, Delvaux viết một cách thù hận về cái chết của cựu phụ chính An Nam Nguyễn Văn Tường! (Sao linh mục hận thù dai dẳng đến vậy, nhất là với một người đã chết!). Dẫu sao, các văn bản hành chính trên cũng đã phủ chính một số điều đơm đặt chính Delvaux đăng lên tạp chí BAVH., 1920 (như Thành Thái ra lệnh quất xích sắt lên quan tài Nguyễn Văn Tường khi tàu thủy mới về đến An Nam!!! 1887, Thành Thái đâu đã lên ngôi! Về sau, Thành Thái đã chứng tỏ ông không phải là một con người tầm thường như thế!).

- Đôi điều xác minh về một thời kỳ biến động của lịch sử An Nam (BAVH., 1941, tr. 215 – 314, chưa xuất bản bản dịch).

[*] Xem thêm: L. Sogny, “Các gia đình thế gia vọng tộc ở nước Nam: ngài Nguyễn Hữu Độ”, NNBCĐH. [BAVH., 1924], sđđ., tr. 262 – 264 … Đây là bài viết ca ngợi tên tay sai, bán nước Nguyễn Hữu Độ một cách trắng trợn!

(4). Đồng chí: một danh từ chỉ những người cùng chí hướng nửa sau thế kỉ XIX: trung quân, ái quốc, chủ chiến, chống Pháp (“bình Tây sát tả”), chống bọn giặc Cờ quấy rối và mưu toan bành trướng của nhà Thanh Trung Hoa, chưa phải là khái niệm “đồng chí” theo lí tưởng cộng sản chủ nghĩa hiện đại.

(5). Xem thêm: ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH., 1975, tr. 355 – 356. Đây là phương thức “không biết gì”:

“… Bỗng được tin báo […] quân ta đánh mạnh vào thành, An Nghiệp [Françis Garnier – TXA. ct] và 1 viên quan một, 1 viên quan hai đều bị giết chết, bọn Hoắc Đạo Sinh [Philastre – ct.] và quan trên tàu thuyền ấy đều đập tay tức giận, bảo Văn Tường rằng: “Việc không xong được, phải báo ngay cho tướng [Dupré – ct.] ấy không nên ở lâu”. Văn Tường thấy chúng khí giận đương bốc lên, sợ lỡ việc lớn, mới thong thả nói rằng: “Việc ở Hà Nội, tướng của quý quốc bảo không phải là bản ý, mà lấy sức quân 4 tỉnh, nước tôi cũng không cùng tranh, thế là hai bên đều không trái. An Nghiệp chết, hoặc bởi bọn cướp khác, hoặc bởi sĩ dân nổi giận, việc chưa rõ ràng, căn cứ vào đâu mà vội báo, huống chi trả lại thành để sớm định điều ước, là lệnh của quý tướng; lấy lại thành rồi sau mới nghị hòa ước là mệnh lệnh của vua nước tôi; bọn chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh ấy. Còn như Hà Nội giết An Nghiệp cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương, đó là đều do sự không ngờ, cũng không phải là bọn chúng ta làm ra. Nay chưa từng thân đến chỗ ấy, biết được việc ấy, mà chỉ nghe tin báo không đâu, chẳng những quý tướng tính [ở nơi – ct.] xa không thể được, mà bọn chúng ta đi lần này thật có phụ. Sao bằng đưa thư ngay cho Hà Nội lập tức phái tàu thuỷ nhỏ đến, cho tiện đi đến nơi; nếu được theo mệnh lệnh trước hội bàn, rất tốt, hoặc được rõ duyên do An Nghiệp bị chết, rồi sau sẽ báo, há chẳng ổn hơn ư?”. Hoắc Đạo Sinh và quan ở tàu ấy nghe theo […]. Văn Tường lại bảo rằng: “Tàu của quý quốc đã tiến vào lại vội ra, sĩ dân nghe thấy, tất bắt chước việc Hà Nội đã làm, thì ai ngăn cấm được; sợ sau này lại hại lắm, thì trả lời tướng của quý quốc ra sao? Nay nên cho tàu Đề Ta Di [Decrès – ct.] ra biển, đón chặn giặc biển, còn tàu vẫn đi trước nên chạy tiến đến Hải Phòng, bọn ta đến ngay Hải Dương, trước giao trả thành ấy, hiểu thị niêm yết cho sĩ dân biết, để tỏ ra thực thà và hòa thuận, rồi sau tiến đến Hà Nội, giao trả hết các thành và hỏi duyên do về việc An Nghiệp, báo cả một thể, mới là kế hoàn toàn”. Hoắc Đạo Sinh thuận nghe…”.

(6). Xem Y. Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 64 – 83. Cũng ở sđd., tr. 82, Tsuboi trích dẫn một đoạn văn của chính Puginier (qua E. Louvet, Cuộc đời giám mục Puginier, Hà Nội, 1894, tr. 397): “Nếu không có thừa sai và giáo dân, thì người Pháp khác nào như những con cua đã bị bẻ hết càng. Ví dụ như vậy tuy mộc mạc song không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thực thế, nếu không có thừa sai và giáo dân, người Pháp sẽ chỉ có địch thủ bao vây; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức sai nhầm đưa tới với ác ý, làm bại hoại tình thế của họ: như vậy họ sẽ bị đẩy vào cái thế không hoạt động được gì rồi nhanh chóng phải hứng chịu những thảm họa thực sự. Họ sẽ không giữ nổi vị trí nơi đây, và sẽ bị buộc phải rời bỏ xứ này”…

(7). Thủ đoạn của Pháp là bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao. Tháng 8 âl., 1881, Rheinart nói rõ, đại ý: “… Nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] không lấn quyền nước ta, chỉ bắt ta không được giao thiệp với nước khác thôi. Ta nếu không nghe, nước ấy cũng bắt làm cho được” (ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH., 1975, tr. 59). Cơ mật viện – Thương bạc nhận định: “… Nước ấy đã mưu, không phải một ngày. […] … Ngăn ngừa ta giao thông với nước ngoài, là chỗ giảo quyệt của nước ấy. Duy trong ước có một điều “nước ta muốn định thương ước với nước nào đều được tuỳ tiện” thì nước ấy đâu có thể trái lời ước được. Nhưng ta từ trước đến giờ chưa giao thông với các nước, mà nước ấy không khỏi giữ ngầm ở trong, nên 6, 7 năm nay, các nước chưa nước nào đến định thương ước với nước ta. Gần đây ta cùng với nước Y Pha Nho định ước, giao ước với nhau đã lâu, mà nước ấy [nước Y Pha Nho – ct.] cũng chưa có đến, thì tình có đáng ngờ, cũng là tình của ta chưa thông với các nước, cho nên nước ấy [nước Pháp – ct.] mưu làm tự chuyên. Vả lại giao thiệp với nước ngoài thực khó, ta chỉ sợ khích nước ấy, lòng mưu tính ta, vì đó lại phát ra. Nay mưu nước ấy sắp thành, ta há nên không giải quyết sớm, huống chi ta cũng cứ lý mà làm, làm sáng cho chúng biết, có trái ước gì đâu, mà chúng vin cớ để nói được… […]. Nhưng tự trước đến giờ thường bị nước ấy ngăn trở, vì ta không có tàu, chỉ đáp tàu với nước ấy, tùy theo nước ấy đi hay đứng mà phải thế. Nay xin sửa soạn tàu của ta, chọn người ở triều đình có lòng đảm đương công việc lấy hai, ba người, lấy cớ đi tìm học về bác vật, như nước Thanh cho người đi học các nước, tư rõ trước cho nước ấy biết. Đến lúc đi thì đến nước ấy trước, nhân chuyển đi các nước Y, Anh, Phổ, Mỹ, khiến cho các nước biết ta tự chủ, nhân đó mà thông suốt tình ý. Tục Thái Tây thích giao thiệp chơi bời với nước xa, ta đến, tự khắc không nước nào không nhận, tưởng cũng có nước muốn giao thiệp thông thương với nước ta, thực khiến cho tình của nước ta thông suốt các nước, thì nước ấy không thể tự ý làm càn được. Nếâu nước ấy có lòng nào bắt ức ta, ta cũng có thể cùng các nước điều đình giúp bàn lại, tưởng cũng là một kế đấy… […]. Lại việc này còn xa, nay gần mà có thể giao thông được thì ở Yên kinh, sứ các nước đều ở đấy, nhiều lần sứ bộ ta sang Yên kinh chưa biết bàn đến việc ấy, vì sự thể giao tế khác nhau, cho nên khó làm. Nay có Cục Chiêu thương chở hàng thuê, do quan ở Cục ấy giới thiệu, tưởng cũng là một cơ hội. Gần đây tiếp được tin báo Đường Đình Canh tháng này cũng đến, xin do bọn tôi thương thuyết, nhờ viên ấy ngỏ ý với Lý Hồng Chương nhờ mật dò ý sứ các nước Anh, Mỹ, Phổ, để nắm được cốt yếu, thông thuyết giúp cho. Còn sứ Y Pha Nho ở đấy, nước ấy đã định ước với ta, thì nên bàn với họ. Nước Thanh gần đây tranh nước Lưu Cầu với nước Nhật Bản mà không được [vì có sự can thiệp của tổng thống Mỹ Grant – ct.], nay nước ấy [nước Thanh – ct.] […] tưởng cùng nòi giống [da vàng – ct.] với ta cũng lo [lo âu về các nước thực dân da trắng – ct.], tất hết lòng mưu thực mà việc chóng xong …” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 59 – 62).

Tháng 12 âl., cuối năm 1881 bước sang 1882, “vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ sinh ngờ. Bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Đường Đình Canh. […]… Văn Tường mật dặn Đường Đình Canh 3 việc:

- … Nước ta đặt quan đón đón chờ ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc gì, được tố cáo ở Tổng lý nha môn.

- Ở Quảng Đông, hiện nghe lãnh sự các nước phần nhiều đóng ở đấy […]… Nước ta đặt 1 lãnh sự ở đấy để tiện đi lại buôn bán, thông báo tin tức, nhân cùng giao du với các nước để thông hiểu tình ý.

- Nước ta muốn phái người đi khắp các nước như các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật Bản, xem xét và học… […].

… Lại đều đem đồ vật gửi tặng […]… Tổng đốc họ Trương [Trương Thụ Thanh – ct.] […] đem đồ vật ấy trả lại, nói rằng nhận sợ nước Pháp ngờ, có việc khó giảng thuyết, tổng đốc họ Lý [Lý Hồng Chương – ct.] cũng lấy thơ và tờ khải đưa cho để tỏ tình cùng khuyên về ý đều phải tự cường”
(ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 90 – 91).

Tháng 6 âl., 1883, Tự Đức mất. Đến khi Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thực sự lãnh đạo Đất nước, Triều đình Huế thực hiện chủ trương ngoại giao đối trọng, trung lập giữa hai nước Pháp, Hoa, vì cả hai nước này đều mưu toan xâm lược và chia nhau Bắc kì! Đó là chiến thuật tọa sơn quan song hổ đấu (ngồi trên núi xem hai con cọp xâu xé nhau), chờ cơ hội giành lại quyền tự chủ cho Đất nước.

Nhưng, tiếc thay, 14.8 âl., 1884, Lý Hồng Chương – Fournier kí tạm ước Thiên Tân, buộc Đại Nam phải chấp nhận cưỡng ước Patenôtre! Nước Nga lại đứng ra điều đình để Pháp – Hoa chính thức kí hiệp ước Thiên Tân (Patenôtre – Lý Hồng Chương), vào ngày 27.4 Ất dậu (1885) (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 127 và tr. 174)! [Theo “Việt Nam sử lược”, khởi đầu việc môi giới cho tạm ước Fournier là do một người Đức, tên Détring (sđd., b. 1964, tr. 539 – 540)].

(8). Điểm này chúng tôi thấy cần nói rõ thêm: các tên đội lốt linh mục, giám mục, một mặt, thổi phồng con số, mặt khác, quy tất cả bọn Việt gian theo Pháp vào nhãn hiệu “giáo dân”, đồng thời tôn các tên xâm lược Pháp là “sứ giả của Thiên Chúa”! Do đó, “bình Tây sát tả”, khẩu hiệu ấy được hiểu là đánh dẹp giặc Pháp xâm lược và tiêu diệt bọn “giáo dân” với nghĩa trên và với nghĩa chối bỏ truyền thống dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam của chúng ta.

Về từ “giáo dân” được Quốc sử quán sử dụng trong phần viết về cuộc Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 âl., 1885) và hai tháng sau đó: Đó là lực lượng giáo dân do thực dân Pháp vũ trang súng đạn; đó là bọn lính ma tà (“giáo dân vô lại”…). Xin phân biệt với bộ phận giáo dân lương thiện, không theo “tả đạo”, thực dân (xem thêm: GS. Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó… , Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368 – 371).

Mặc dù vè “Thất thủ kinh đô” không phải là tư liệu gốc, chỉ là một tác phẩm dân gian hư cấu với nhiều sai lệch đáng kể, chúng tôi cũng trích một vài đoạn, chỉ để tham khảo thêm:

“Đô thành, quan Quận giao hòa
Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây
Tây phiên ngẫm vẫn giận thay:
“Đem lòng cự chiến, còn đến đây làm gì?

May mà Nam Việt buổi bại suy
Tây mà bại, Đạo phen ni, cũng không còn
Người mà phiêu lạc núi non
Bao nhiêu nhà cửa chẳng còn gì đâu
Tây phiên thúc thủ thụ đầu
Hàng lai Nam Việt, mảnh âu chẳng lành
Tây phiên trở lại Tây thành
Ở đây xấu tiếng bia [bêu?] danh đã rồi
Họ không cho đâm nhánh mọc chồi
Trăm dao xẻo thịt thả trôi giang hà”
Quan Quận khi ấy nói qua
Nói cùng Đại Pháp chư nha phiên trào:
“…”
Quan một cho đến quan ba
Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe!
Đòi triệu các quan tỉnh trở về
Sự tình y ước cho ra bề đục trong
Tin thì tin, dạ còn phòng
Nam triều tể tướng nó đem lòng phục binh…”.


Vẫn là vấn đề “bình Tây sát tả”; “Bắc Việt bị “bảo hộ”” và “Nam Việt [Trung kì] thuộc Nam triều”!

Chúng vẫn sợ Nam triều tể tướng Nguyễn Văn Tường làm nội công cho Tôn Thất Thuyết.

(Ở cuốn “Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng” này, chúng tôi đã có dịp bước đầu phân tích vè “Thất thủ kinh đô” với một vài nét nhấn then chốt).

Về Giáo hội Thiên Chúa giáo Vatican và Hội Truyền giáo Paris tại hải ngoại, ngoài ba cuốn sách của Trần Tam Tỉnh, Trần Văn Giàu và Yoshiharu Tsuboi mà chúng tôi có tham khảo, xin xem thêm: TS. Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; vừa được Nxb. Tôn Giáo tại Hà Nội xuất bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận (vào tháng 02.2003), với sự thay đổi nhan đề: “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914) [!?!].

Nhân tiện, xin mở một ngoặc đơn ở đây:

1. Cao Huy Thuần đã chứng minh đúng vai trò xâm lược của Giáo hội Thiên Chúa giáo Vatican (Rome); các giáo hoàng Nicolas V với giáo chỉ năm 1454, Calixte III với giáo chỉ 13.3.1456, Alexandre VI với giáo chỉ Inter Caetera 04.5.1593, đã chủ động câu kết với các thế lực thực dân như Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha… [sđd., tr. 11]; và vai trò xâm lược trực tiếp trong lốt cố đạo của các giáo sĩ từ các nước thực dân ấy.

Đối chiếu tư liệu: Machiavel, Quân vương (Le Prince), Phan Huy Chiêm dịch, Nxb. Quảng Hoá, 1968, tr. 48 – 53; Trần Tam Tỉnh (linh mục, giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Canada), Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Céçar, [dịch thoát]), Vương Đình Bích (linh mục) dịch, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 14 – 15. Theo Machiavel, cha đẻ của Céçar Borgia là giáo hoàng Alexandre VI.

2. Cuốn sách của Cao Huy Thuần ở chương có đề cập đến các nhân vật lịch sử Việt Nam dưới thời Tự Đức (chúng tôi chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 1873 – 1874; sđd., tr. 253 – 326), có một số điểm cần bàn. Đó là sự mập mờ, lệch lạc, đánh tráo, xuyên tạc không thể không chỉ ra và phê phán để tránh những ngộ nhận lịch sử đáng tiếc. Cao Huy Thuần không phân biệt khuynh hướng chủ “hoà” (đầu hàng) với biện pháp “hoà là cơ nghi” (“chiến rồi mới có thể hoà, hoà để thủ, thủ để mưu chiến”). Cao Huy Thuần muốn che giấu cho Trần Tiễn Thành!

3. Cao Huy Thuần chỉ sử dụng tư liệu của Pháp (trong đó có tư liệu ở các kho lưu trữ của Bộ Hải Ngoại và Thuộc địa Pháp) một cách không đầy đủ, lại thiếu sự đối chiếu với tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn…

(9). Chúng tôi xin chốt lại và nhấn mạnh điểm này: Có điều, sử học vẫn phải phân tách rõ “hư chiêu” và “thực chiêu”: a). căn cứ vào ba mươi năm làm quan, một niềm trung quân ái quốc và kiên định lập trường chống Pháp; b). căn cứ vào hai tháng sau ngày 23.5 Ất dậu, 1885 với hai mật dụ Hàm Nghi từ Tân Sở gửi về và tinh thần đấu tranh khẳng khái, không chịu khuất phục của Nguyễn Văn Tường [gồm cả ý định lập Đồng Khánh bởi không còn ai trong diện có thể, ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 23]; c). căn cứ vào hai bản kết án chung thẩm của De Courcy, De Champeaux và Triều đình Đồøng Khánh [ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247 và tập 37, sđd., tr. 33, 35, 132 –141]; d). căn cứ vào cả tư liệu của Puginier, H. Le Marchant de Trigon, A. Delvaux (1916)… , các tư liệu chưa công bố của Pháp được trích dẫn bởi Yoshiharu Tsuboi (NĐNĐDVP. & TH., công trình được tài trợ bởi chính phủ Pháp với sự giúp đỡ của một số nhà sử học Pháp [1982]; quan điểm của Tsuboi vẫn là bảo hoàng, tư sản…).

Xin nhấn mạnh:

Có ý kiến khác: Đưa vua Hàm Nghi về nhưng vẫn tiếp tục cần vương; Hàm Nghi sẽ lãnh đạo tổng quát cuộc kháng chiến bằng mật dụ; chỉ đạo kháng chiến trực tiếp chỉ cần Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng… Bởi lẽ, một nước có hai vua là quá táo bạo! (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244).

Xin tham khảo thêm:

1. Những tư liệu sau đây khớp với tư liệu chuẩn cứ (Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36, và có thể kể cả tập 37, bộ sđd.) cũng như các tư liệu khác, chúng tôi đã có dịp trưng dẫn trong bài viết “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi 05.07.1885” (đã in trong tập tư liệu “Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường – Các báo cáo khoa học”, do Trung tâm KHXH. & NV. thuộc Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, Tạp chí Huế Xưa và Nay tổ chức, in ấn, 02.07.2002, tr. 59 – 83):

◘ Tài liệu 1: Bài báo “Những biến cố ở Huế” (Les évènements de Huế), đăng trên tờ nhật báo L’Unité – Indochinoise (cơ quan của quyền lợi chính trị, thương mại, canh nông, kĩ nghệ của Nam Kì, Cam Bốt, Bắc Kì và Trung Kì), số 70, năm thứ hai, ra ngày thứ sáu, 07.08.1885.

Đoạn mở đầu, tác giả khẳng định: “Cách đây vài ngày, chúng tôi đã viết là [Nguyễn Văn] Tường chẳng bao giờ là đồng minh của chúng ta. Nay, cần thêm rằng, chúng ta chẳng hề tin tưởng một tí gì về những lời hứa hẹn chính thức nhất của ông ta, và rằng, sau chuyến bôn tẩu của nhà vua An Nam cùng với vị thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết, ông ta ở lại kinh thành chỉ nhằm mục đích phục vụ cho những người nói trên (vua và Tôn Thất Thuyết) mà thôi”.

◘ Tài liệu 2: Bài báo “Vụ bắt giữ viên quan Tường” (L’arrestation du mandarin Tường), đăng trên tờ báo Avenir militaire (Tương lai quân đội), số ra ngày 26.09.1885. Đây là một bài báo đã được tìm thấy trong tình trạng đã được cắt rời khỏi tờ báo.

Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc lược dịch như sau:

“Chúng ta đã tìm thấy những thông tin sau trong một bức thư đề ngày 11 tháng 09 gửi cho Hãng Thông tấn Havas: Tôi đã gửi cho ông chiều hôm qua một điện tín để báo cho ông biết việc vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường bị bắt. Bằng cách nào và tại sao người ta bắt ông?

Sau biến cố 05 tháng 07, [Nguyễn Văn] Tường tìm gặp thống tướng [[De Courcy]], ông ta bị bắt cầm tù và buộc phục vụ cho nước Pháp. Thoạt tiên, tướng tổng tham mưu định xử bắn ông, nhưng nghĩ lại, tốt hơn là giao cho ông ta tái lập guồng máy hành chính An Nam nhưng ông vẫn là tù nhân chừng nào những xao động chưa được xếp đặt yên ổn, người ta uỷ thác cho ông ta tái lập niềm tin trong dân chúng và giúp chúng ta theo dõi tất cả hoạt động của giới quan lại. Ông ta có nhiệm vụ đưa vua hồi loan và không được phản bội lại chúng ta. Tất cả những điều kiện ấy đang được thực thi hay ít ra chúng ta tưởng như vậy cho đến những ngày gần đây, chúng ta biết rằng [Nguyễn Văn] Tường liên lạc bí mật với thân phụ [nhạc phụ?] ông ta ở bên ngoài. Người ta không tìm thấy gì khi bắt giữ những người chuyển văn thư. Nhưng, vào chiều ngày thứ hai vừa qua, tình cờ ta bắt giữ được một tên trong bọn chúng. Khám xét khắp người, người ta chẳng tìm thấy gì. Khi lột trần tên mật sứ kia, khám kĩ y, người ta đã tìm thấy một mảnh giấy nhỏ, nội dung được dịch ngay tại chỗ và quyết định bắt giữ [Nguyễn Văn] Tường ngay tức thì. Nội dung mảnh giấy là gì, chỉ có thống tướng biết…”.


◘ Tài liệu bổ cứu cho bài báo trên: “Ngày 05 tháng 09 là hạn chót hai tháng mà ông thống tướng De Courcy quy định cho [Nguyễn Văn] Tường phải ổn định An Nam. [Nguyễn Văn] Tường, như người ta nhận biết, đã cung cấp cho chúng ta những nguồn tin thất thiệt; mặc dù chúng ta đã giám sát chặt chẽ, ông ta vẫn liên lạc với những nhân vật đáng ngờ ở bên ngoài. Thống tướng quyết định cho bắt giữ ông ta”.

(Trích Gosselin, L’Empire d’Annam, Perrin et Cie, Librairies – éditeurs, Paris, 1904, tr. 219).

Sau khi giới thiệu các tài liệu trên, nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc kết luận:

“Vậy là, các nguồn tư liệu đều cho chúng ta biết rằng trong thế bị cầm tù ở Thương bạc, và dù bị giám sát chặt chẽ, Nguyễn Văn Tường vẫn liên lạc với bên ngoài cho đến khi bị phát giác và bị bắt. Cho nên những việc ông công khai làm dưới sự ép buộc của người Pháp trong tình thế bị giam hãm là những hành động bất đắc dĩ, không thật tâm, còn những liên lạc bí mật với bên ngoài, chính là những cố gắng cuối cùng của ông nhằm phục vụ Đất nước, bày tỏ trung thành với vua Hàm Nghi. Đó là lí do chính yếu mà De Courcy quyết định bắt và lưu đày ông …”.

(Trần thuật và dẫn theo bài báo của Trần Viết Ngạc, “Những tư liệu mới về Nguyễn Văn Tường” [giới thiệu, phân tích, bổ sung tư liệu sưu tầm, dịch thuật của bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Tường, và con gái bà là Trần Nguyễn Từ Vân], bns. Xưa & Nay, số 126 (174) tháng 10.2002, tr. 18 – 20).

2. Xem thêm: Nhiều tác giả, Côn Đảo, kí sự và tư liệu, Ban liên lạc tù chính trị, Sở Văn hóa – Thông tin, Nxb. Trẻ Tp. HCM. phối hợp xb., 1998, tr. 85: Khi đày Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính ra Côn Đảo, De Courcy có gửi theo một mật hàm cho chúa đảo là Caffort:

“Tầm quan trọng của những tù nhân này đòi hỏi phải được giám sát hết sức nghiêm ngặt với bất cứ giá nào”.

Theo tư liệu trên, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đổ thuốc độc vào miệng, nên răng bị rụng (vài chiếc, và bị lung lay nhiều chiếc khác) (tr. 85).

(Dẫn theo: PGS. TS. Đỗ Bang, tập "Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học", bài “Góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc đời của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường”, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế phối hợp tổ chức, 02.07.2002., tr. 40).

3. GS. Trần Văn Giàu, "Chống xâm lăng", Nxb. TP. HCM. tái bản, 2003, tr. 560: “Nhưng giữa lúc Cuốc-xy bối rối vô cùng thì Từ-Dũ và Tam cung về Huế. [&?!? – TXA. ct.] Viện Cơ mật [&?!? – ct.], Nguyễn-hữu-Độ làm phó (Độ là phó vương Bắc-kỳ được Pháp tin cẩn), lập một số bộ, trong đó có bộ binh do tên khâm sứ Sam-pô [Champeaux – ct.] cầm đầu. Cuốc-xy ép đám hoàng thân cử Thọ-Xuân làm phụ chánh [đúng chức danh là nhiếp chánh – ct.], ép Thọ-Xuân làm bản tuyên cáo nói rằng Tôn-thất-Thuyết là nghịch đảng, rằng các quan ở Bắc, Trung phải cộng tác với quân Pháp để tiêu diệt nghịch đảng, v.v… Nhưng chính địch cũng phải thừa nhận rằng ông già Thọ-Xuân 76 tuổi “không có ảnh hưởng gì trong nhân dân cả”, càng không có ảnh hưởng gì với tầng lớp thân sĩ trí thức.
“Cái khả năng duy nhất của ông phụ chánh [nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định – TXA. ct.] chỉ là ký tên mà thôi”
(Gosselin, L’Empire d’Annam [tr.? – ct.])”.

4. Xem thêm: Có một giai thoại về phụ chính Nguyễn Văn Tường sau ngày kinh đô quật khởi và bị thất thủ, đề cập đến tài năng, nhân cách, tư tưởng, thái độ chính trị kiên cường chống Pháp và lòng trung nghĩa của ông. Những đoạn trong giai thoại này, sau khi khảo chứng (đối chiếu tư liệu gốc, bổ cứu, loại trừ …), xét thấy không đúng với sự thật lịch sử, chúng tôi đã mạn phép lược bỏ. Mặc dù giai thoại chỉ là chuyện truyền khẩu, chứa đựng nhiều sai lệch, nhưng ít nhiều vẫn có thể đãi lọc một vài lượng thông tin nào đó, trên cơ sở khảo chứng khoa học. Có một điều cần nhấn mạnh, Nguyễn Văn Tường được cử ở lại Huế sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ không chỉ nhằm mục đích hạn chế sự thiệt hại về nhân mạng, tài sản triều đình và của cải nhân dân, mà còn để thực hiện phương án vừa đánh vừa đàm. Cũng cần nhấn mạnh, Nguyễn Văn Tường vốn là một đại thần trung nghĩa, và ông thừa biết thủ đoạn “gạ gẫm” của bọn Pháp. Xin chép lại để tham khảo thêm như sau:

“ … Dưới thời Tự Đức, [phụ chính Nguyễn Văn] Tường làm quan nổi tiếng là một người mưu lược, những việc gì khó thì triều đình đều cử [Nguyễn Văn] Tường đảm nhiệm. Tự Đức mất, để di chiếu lại, cử [Nguyễn Văn] Tường là một trong ba người trọng thần. (Hai người kia là Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết). Lúc Pháp xâm chiếm Việt Nam, [Nguyễn Văn] Tường và [Tôn Thất] Thuyết là hai người đứng đầu phe chủ chiến quyết tâm đánh Pháp. Sau sự kiện thất thủ kinh đô (07.1885) [đệ nhị phụ chính Tôn Thất] Thuyết đưa vua Hàm Nghi xuất bôn, tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài, [đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn] Tường là người mưu lược, được cử ở lại để tìm mọi cách hạn chế bớt sự thiệt hại. Vì “nhiệm vụ lịch sử”, [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đã bị mang tiếng phản bội, cộng tác với giặc.
[Phụ chính Nguyễn Văn] Tường là một đối thủ đáng gờm của Pháp từ mấy mươi năm. Cho nên khi [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đã “về hàng” mà Pháp vẫn sợ và cho một đơn vị quân đội luôn canh chừng [Nguyễn Văn] Tường. Mặt khác, Pháp muốn dùng “tên” của [phụ chính Nguyễn Văn] Tường để làm “tay sai” cho chúng, nên chúng đã tìm mọi cách để lôi kéo [Nguyễn Văn] Tường.
Khi được linh [giám] mục Caspard [Caspar] cho biết [phụ chính Nguyễn Văn] Tường chính là con vua Thiệu Trị và em vua Tự Đức, Pháp đã gạ [Nguyễn Văn] Tường:
- Ông là người có dòng máu nhà vua, lại có tài, vậy ông có muốn làm vua không?
[Phụ chính Nguyễn Văn] Tường lắc đầu. Pháp lại hỏi:
- Nghe ông có một người con cũng giỏi lắm. Ông có muốn cho con ông làm vua không?
[Phụ chính Nguyễn Văn] Tường cũng lắc đầu.
Tên đầu sỏ thực dân Pháp ở Huế [De Champeaux] cũng lắc đầu:
- Con vua mà không muốn làm vua … Thật là một chuyện lạ! Phải chăng lòng ông còn đang mơ tưởng đến Hàm Nghi, phải không?
Sự nghi ngờ [phụ chính Nguyễn Văn] Tường trong lòng bọn thực dân lại chồng chất thêm. Cuối cùng, khi thấy không thể tin được, bọn Pháp đã đưa [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đi đày và ông đã chết …”.


(Nguyễn Đắc Xuân viết theo Phan Văn Dật [thi sĩ tiền chiến, người Quảng Trị] và nhiều tư liệu khác, “Con vua mà không chịu làm vua”, trong cuốn Hương giang cố sự, Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986, tr. 47 – 48. Xem thêm: Nguyễn Đắc Xuân, Chuyện các quan triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1999 (?)…).

Chúng tôi đã viết rõ ở truyện thứ nhất, tập I, bộ truyện kí – khảo cứu lịch sử “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường”: ông không phải là con rơi của vua Thiệu Trị.

(10). Đào Doãn Địch (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 79). Xem thêm về nhân vật Đinh Hội (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 80, 142 [?], 244, 325): Đinh Hội chống Pháp, không chống Triều đình thời Nguyễn Văn Tường còn giữ vị thế.

(11). Đây là loại thông tin bản án. Trong các loại thông tin, loại bản án, cáo thị, mật thư, mật dụ… hiển nhiên có độ khả tín cao nhất. Các loại thông tin này được phối kiểm và kiểm chứng bằng suốt cả quá trình hoạt động lâu dài và ở kết thúc cuộc đời nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (bị lưu đày và chết ở chốn lưu đày biệt xứ). Ở kỉ đệ tứ, đệ ngũ (các tập 27 – 36), những văn kiện trên là hoàn toàn xác tín. Riêng ở kỉ đệ lục (2 tập 37 – 38), ngoại trừ bản án về bốn nhân vật chủ chốt [*] trong nhóm chủ chiến đã được xác định độ khả tín tuyệt đối, thì số văn kiện liên quan còn lại, cần phải đãi lọc (chúng tôi đã thực hiện ở bài viết).

Năm 1890, Trương Quang Đản có dâng sớ chạy “tội”, kêu “oan” cho Trương Văn Đễ, do quyền lợi chính trị thời bị “bảo hộ”!? Chỉ có một trường hợp như vậy (xem “Đại Nam liệt truyện”, tập 3, sđd., tr. 425 – 426). Người viết nghĩ rằng, ngoài việc cùng chủ trương cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885), Trương Văn Đễ còn được trao nhiệm vụ cản hậu và đánh lạc hướng các cuộc truy kích vua Hàm Nghi mà thực dân Pháp cố quyết tiến hành. Riêng chi tiết (cản hậu, đánh lạc hướng) này, và vai trò tương tự của Đinh Tử Lượng, cần được nghiên cứu, xác minh thêm, mặc dù chúng tôi nhận thấy đã có đủ dữ kiện trong ĐNTL.CB., tập 36, tr. 223, 229, 234, 243.

[*] Phạm Thận Duật hóa ra chỉ là một nhân vật rất mờ nhạt, không có tên trong bản án chung thẩm này.


(12). “Nguyễn Văn Tường, thượng thư, sau này là phụ chánh, Văn Minh, sau [nữa là] Cần Chánh, Ky-vi-ba, phụ trách đối ngoại, bị đày vào năm 1885 ở Tahiti và mất tại đó” [bị chú của H. Le Marchant de Trigon; những chữ trong dấu móc vuông [ ] là của chúng tôi – người viết và chú thích chua thêm (TXA. ct.); xin lưu ý thêm: 29.8.1875 (một ngàn tám trăm bảy mươi lăm)].

Trích từ: H. Le Marchant de Trigon, bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế” [viết về Rheinart], Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1917), Nxb. Thuận Hóa, 1998, tập IV, sđd., tr. 273).

(13). Về Tôn Thất Thuyết, tên ông hầu như luôn luôn gắn liền với danh tính Nguyễn Văn Tường, hoặc được gọi chung là “hai người” trong ĐNTL.CB., tập 35 – tập 37, Nxb. KHXH., 1976 – 1977, chứng tỏ sự nhất dạng cao. Tuy nhiên, trước đó cũng có lần Tôn Thất Thuyết mắc mưu bôi nhọ, nhằm triệt hạ, đập tan tành uy tín Nguyễn Văn Tường của De Champeaux:

“Thượng thư bộ hộ là Nguyễn Văn Tường vì bị lời gièm (nguyên hiệp đốc là Tôn Thất Thuyết tâu nghĩ về việc tiền đồng dị dạng có nói: “Thuyền nước khác mang đến, hết lòng xin giúp”; lại nói: “Cùng người chia lợi, mọt nước hại dân, lại ở kinh đô đồn rầm là Nguyễn Văn Tường nhận nhiều của lót, tâu xin bỏ cấm”) xin trả việc Bộ Hộ, đổi sung bộ khác.

Vua dụ rằng: “Thuyết ít học không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể; lời đồn ở kinh đô cũng không căn cứ; người xưa không thể dẹp được lời gièm, cho nên nói: “Cứu rét không gì bằng mặc hai lần áo cừu, dẹp lời gièm không gì bằng tự phải tu tỉnh”. Nguyễn Văn Tường từ lúc giữ việc ở Bộ Hộ đến giờ, có phần hết lòng trù tính, thuế khóa của nước có hơn lên; đương lúc phải giữ đà về quân nhu bận rộn, đều được ổn thoả cả. Trẫm đương trách uỷ cho làm có thành hiệu sao nên tự đẩy đem thoái thác”” (ĐNTL .CB., tập 34, Nxb. KHXH., 1976, tr. 370: tháng 9 âl., 1880).

“Sứ nước Pháp nghe nói tỉnh Quảng Nam có mỏ than, (khách buôn lãnh trưng), yêu cầu xin đến khám; chưa cho, sứ ấy lại thác ra việc mật đưa thẳng lên vua, ngầm gièm quan Viện – Bạc đại thần, (trong thư nói: “Có người bất trung, bất công đến nỗi ngờ nước ấy có ý gì khác, lấy nhiều của lót giả ơn của người nước Thanh”; lại nói: “Người cho lái buôn nước Thanh khai mỏ ấy chỉ mưu lợi cho mình, không làm lợi cho nhà nước”), quan Viện – Bạc xin đưa thư cho chủ suý Pháp và sao bức thư của sứ ấy ghim vào gửi đi, để cho biết sứ ấy có sự không phải, để khỏi nghe một bề về sau.
Vua bảo rằng: “Nay nếu đem lời nói không phải của hắn, vội viết thư cho chủ suý của hắn, không khỏi bênh nhau bỏ đi, ích gì đến ta; thế là đều không nhịn sự giận nhỏ, để lỡ việc lớn, không phải là khéo xử. Nên mật tư từ đầu cuối việc ấy giao cho Nguyễn Thành Ý theo thế nói cho chủ suý hắn biết””
(ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 341: tháng 4 âl., 1880).

Đó là một biểu hiện của cuộc chiến tranh trên mặt trận kinh tế (ngoại thương, tài chính).

Sau lần hiểu lầm vì mắc mưu De Champeaux ấy, hai người luôn luôn đoàn kết với nhau, cho đến lúc Nguyễn Văn Tường bị lưu đày sang Tahiti, Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa cầu viện trong tuyệt vọng…

(14). Việc lập Đồng Khánh là chẳng đặng đừng, trái với di chúc của Tự Đức. Di chúc đã ghi rõ: “Ưng Kỉ người yếu hay ốm, có tâm tật, chưa học thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 200 – 201). “Lạm thẳng” là vi phạm tính trung trực, hay bẻ cong sự thật! Một tác giả thực dân Pháp đã viết: “Chưa hề ở xứ sở nào, thời nào có ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh” (Charles Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, 1904, tr. 267; dẫn theo Dương Kinh Quốc, Phan Canh, Đào Đức Chương, Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng…).

Với bài “Giải triều…”, Nguyễn Văn Tường khẳng định lòng mình chỉ hướng đến vua Hàm Nghi.

(15). Xem thêm các bài viết của thực dân Pháp (xin đọc với cách đọc theo quan điểm yêu nước, dân tộc của chúng ta và công lí chân chính, tiến bộ của nhân loại):

- A. Laborde, Tỉnh Quảng Trị, NNBCĐH. [BAVH., 1921], tập VIII, Phan Xưng dịch, Nhị Xuyên hiệu đính, Nxb. TH., 2001, tr. 196, 200 … (xem lại chú thích (3)).

- H. Cosserat, Người ta viết sử như thế nào: Đón tiếp đại tá Guerrier tại Triều đình nước Nam ngày 17.8.1884, NNBCĐH. [BAVH., 1924], tập XI, sđd., tr. 373 – 397. Trích bài viết này:

“… Đúng pháp luật mà nói, thì ông Tường ra khỏi kinh thành là để trình diện trước tòa án binh […]; nếu khôn ngoan hơn, thì ta không nên để một con người [chỉ Nguyễn Văn Tường – TXA. ct.] rõ ràng là kẻ thù của chúng ta cầm Triều đình, một con người luôn đã và sẽ chống phá nền đô hộ của chúng ta theo cách này hay cách khác, không chịu chấp nhận nó.

Nhưng chúng ta đã tin, đã làm bộ tin sự thành thật trong những lời phản đối của ông ta [về các biến động trong Triều đình – ct. theo mạch văn của tên thực dân xấc xược Cosserat], và đã chấp thuận những lời khôn khéo của ông ta như là bằng chứng của ý nghĩ tốt. […].

“Thay vì Kiến Phúc thì nay là Mệ Tríu [Hàm Nghi – ct.]”, và luôn vẫn là Nguyễn Văn Tường trị vì.

Thật sự, từ nay […] quan phụ chính [Nguyễn Văn Tường – ct.] không thể tha hồ bày mưu tính kế để chống lại chúng ta […].

Tướng De Courcy, theo lời của Huart, chiều 3.7 mới biết được kết quả tiêu cực của các sự thương thảo với Triều đình về việc đón tiếp ông, và người ta đã đề đạt tới ông các lời báo cáo chẳng có tính cách gì làm dịu bớt sự nôn nóng của ông, hoặc làm cho ông có thiện cảm với người nước Nam.

Con người hôn mê [chỉ Nguyễn Văn Tường – ct.] có ý chẳng làm cho tướng tổng chỉ huy [chỉ De Courcy – ct.] có được điều gì khá hơn là những điều mà con người ấy đã làm cho các khâm sứ khác … […]
(bđd., sđd., tr. 380 – 382).

Nói chung, điều chúng tôi thấy cần nhấn mạnh là, thái độ thù – bạn, địch – ta của các tên thực dân, tay sai, kể cả cố đạo mang bản chất xâm lược, thể hiện rất rõ trong các bài viết của chúng, trên NNBCĐH. (BAVH.) suốt ba mươi năm ấn hành (1914 – 1944), trên sách báo xuất bản tại Pháp trước đây. Chúng không tiếc lời ca ngợi bọn tay sai như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân, Cao Xuân Dục… Chúng cũng đề cao đáng kể người đã thật sự đầu hàng chúng, ra quân đánh dẹp phong trào Cần vương như Hoàng Tá Viêm [*]. Và tất nhiên chúng tìm đủ mọi cách để triệt hạ uy tín những người chống Pháp, chống tả đạo đến cùng như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết… Vấn đề là thái độ thù địch, căm hận của chúng đối với Nguyễn Văn Tường, còn lượng thông tin trong các bài viết ấy về ông, chúng tôi phải phối kiểm (không thể nhẹ dạ, cả tin đến ngây thơ và phi khoa học như một số người được gọi là nhà văn, nhà sử học…). Chúng tôi nghiên cứu những bài viết ấy trong sự lưu ý với tinh thần cảnh giác đó, và lấy ĐNTL.CB. IV, V (1847 – 1883; 1883 - 1885), đặc biệt là các tư liệu gốc (CHÂU BẢN…) được trích dẫn trong đó, gồm quốc thư, dụ, mật dụ, tấu, sớ, bản án (và cả bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux)… làm chuẩn cứ, đồng thờiø tham khảo, phối kiểm, đãi lọc thêm ở ĐNTL.CB.VI (1885 – 1888, kỉ ngụy triều Đồng Khánh!).

[*] Theo ĐNTL.CB, tập 37, sđd., tr. 200 – 203, 305: Hoàng Tá Viêm “đánh để yên dân, không phải đánh lấy thắng”. Đó là quan điểm yên dân trong nô lệ của ngụy triều Đồng Khánh!



2. CƯỚC CHÚ bài NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886) VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7, 1885):

[1] Chu Thiên Hoàng Minh Giám dịch.

[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 226.

[3] ĐNTL.CB., tập 36, sđđ., tr. 221 và tr. 230; Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca, Nxb. Tân Việt, 1950 [?], tr. 39 – 40.

[4] Trong “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc” [!], Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1971, tr. 516 – 517.

[5] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 236 – 237.

[6] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 157 – 158.

[7] ĐNTL.CB., sđd., tr. 157 – 158.

[8] ĐNTL.CB., sđd., tr. 210, 213 – 214.

[9] ĐNTL.CB., sđd., tr. 166.

[10] ĐNTL.CB., sđd., tr. 236.

[11] ĐNTL.CB., sđd., tr. 226.

[12] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 48.

[13] Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 553 – 554; Nxb. VHTT., b. 1999, tr, 582 – 583.

[14] ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH., 1997, tr. 43.

[15] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 224.
Xin nhấn mạnh: chú thích (2) ở cuối bài.

[16] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 36.

[17] Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. TH., 1990, tr. 97.

[18] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 220.

[19] Delvaux, bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1916), tập 3, Đặng Như Tùng dịch và một nhóm dịch giả khác hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 74.

[20] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 63 – 64, 220.

[21] ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH., 1974, tr. 170 – 172; tập 31, Nxb. KHXH., 1974, tr. 86 – 87, 103.

[22] Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn, tư tưởng, chưa xuất bản, bài số 38, tr. 271.

[23] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 64 – 66; Delvaux, bài viết ở sđd., tr. 54.

[24] Bản dịch tiếng Việt của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1998, tr. 502 – 504.

[25] Trần Trọng Kim, b.1999, Nxb. VHTT., tr. 545 – 546.

[26] ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH., 1975, tr. 26.

[27] Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, UB. KHXH. TU. TP. HCM. xb., 1990, tr. 117.

[28] Bài của GS. Nguyễn Văn Kiệm, trong Kỉ yếu Hội nghị khoa học về đề tài “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, tr. 14.

[29] Delvaux, bđd., sđd., tr. 57, tr. 79 – 80, đoạn cuối tr. 81 – 82.

[30] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tâân Việt, b. 1964, tr. 554.

[31] Đoàn Trưng, Trung nghĩa ca, 1866.

[32] Delvaux, NNBCĐH. [BAVH., 1916], bài viết và sđd., tr. 54.

[33] Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử Quảng Trị: tháng 9.1885”, NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 439.

[34] Trích theo GS. Trần Văn Giàu, “Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử” [tập I của bộ sách SPTTTVN. TTK. XIX. ĐCMTT.], Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368, 370, trích dẫn Compendium historicoe Ecclesiasticoe của H. Ravier; xem thêm: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 242, 245 – 246.

[35] Bài của Delvaux, sđd., tr. 78 – 79.

[36] Delvaux, bài đã dẫn, sđd., tr. 79.

[37] Jabouille, bài đã dẫn, sđd., tr. 434.

[38] Xem thêm: Delvaux, bài đã dẫn, sđd., tr. 47; Tsuboi, sđd. [trích dẫn Puginier qua Louvet], tr. 82.

[39] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244 – 246.

[40] Lương An sưu tầm và chỉnh lí, Nxb. Thuận Hoá, 1983, các câu 1337 – 1348.

[41] Delvaux, bđd., sđd., tr. 80.

[42] Như trên: Delvaux, bđd., sđd., tr. 80.

[43] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 229.

* Về việc Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết bàn bạc kế hoạch, cùng tổ chức cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 23.5 Ất dậu [1885], xem Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 59, tr. 95 – 101, đặc biệt là tr. 97 – 98; xin xem thêm: Phạm Văn Sơn, Việt Nam cách mạng cận sử, Sài Gòn, 1963, tr. 29 – 31; Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Q. Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. VHTT., 1999, tr. 706 – 707; Dậu tuất niên gian phong hỏa kí sự, trong “Đặng Đức Tuấn…”, Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1970, tr. 478 – 479; Silvestre, Khoa học chính trị kỉ yếu, 1898, tr. 93 – 94; Gosselin (tác giả L’Empire d’Annam, Paris, 1904) cũng có ý kiến như vậy bên cạnh những chi tiết bịa tạc khác. Sở dĩ chúng tôi cho rằng điều đó là đúng vì ĐNTL.CB, đệ lục kỉ, tập 37, sđd., tr. 35 cũng kết án (!) Nguyễn Văn Tường… “đều là bè đảng làm loạn”; “thực là căn nguyên tai vạ” (tr. 33), “Nguyễn Văn Tường liền quỷ quyệt đem thân quay về thú tội với quan đô thống Pháp, rồi đã bị tội lưu” (tr. 132 – 141); trong VNSL., Trần Trọng Kim cũng dùng chữ “đầu thú” với nghĩa đầu hàng (tất nhiên là “trá hàng”, và trá hàng để tiếp tục đấu tranh, để phe chủ “hoà”, thân Pháp, tả đạo khỏi cướp chính quyền…). Tại sao Trần Trọng Kim và chúng lại bảo Nguyễn Văn Tường “đầu thú”, “trá hàng”, còn những người về hợp tác với chúng thì không? Phải chăng về sau, Pháp biết Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết bàn định trước? Rất tiếc cuối cùng ông vẫn bị “tương kế tựu kế” của Caspar, De Courcy… Chắc chắn ông đã liệu trước nguy cơ ấy, nhưng không còn cách nào khác, để cứu vãn tình hình kinh đô thất thủ, nên “đành liều may rủi với trời” một lần nữa!

[44] A. Delvaux, bài viết trên, sđd., tr. 77.

[45] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 240 – 241.

[46] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 223.

[47] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 238.

[48] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 250; Đại Nam liệt truyện, tập 3, Nxb. TH., 1993, tr. 78.

[49] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 239.

[50] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 235.

Có ý kiến khác: Đưa vua Hàm Nghi về nhưng vẫn tiếp tục Cần vương; Hàm Nghi sẽ lãnh đạo tổng quát cuộc kháng chiến bằng mật dụ; chỉ đạo kháng chiến trực tiếp chỉ cần Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng… Bởi lẽ, một nước có hai vua là quá táo bạo! (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244).

[51] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 223.

[52] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 235 – 236; tập 37, sđd., tr. 175.

[53] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244, 245 – 246…

[54] Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 319.
Đối chiếu với ĐNTL.CB. (cuối tập 36, và đầu tập 37, sẽ được trích dẫn ở những trang tiếp theo), chúng tôi (TXA.) thấy rằng, không phải hai tên thực dân cố đạo Puginier và Von Camelbeck nói sai sựï thật ở điểm này và chúng phát động chiến dịch điên cuồng chống Nguyễn Văn Tường một cách thiếu cơ sở. Do đó, không phải như Cao Huy Thuần nhận định: chính phủ Cộng hoà thực dân Pháp tại Paris bị “tiêm nhiễm” bởi sự tuyên truyền, kích động của Puginier và Von Camelbeck. Sự “tiêm nhiễm” ấy là ở trường hợp khác, vấn đề khác, nhân vật khác, sự kiện khác…

Xin xem thêm chú thích (8) ở cuối bài.

[55] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 227.

[56] ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 86 – 89, tr. 103…

[57] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 225 – 226.

[58] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 226 – 228.

[59] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247.

[60] Xem lại: Delvaux, bđd., sđd., tr. 79.

[61] Xem lại: Jabouille, bđd., sđd., tr. 434, 439…

[62] ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”, tập 37, sđd., tr. 33.

[63] VNSL., b.1964, tr. 554 và 555.

[64] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 35.

[65] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 133.

[66] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 134.

[67] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244.

[68] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 138.

[69] Xem thêm: Trần Viết Ngạc, bài “Chiếu hay Dụ Cần vương?”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học lịch sử về nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, tr. 25 – 30; Xưa & Nay, số 128, tháng 11. 2002, tr. 9 – 11 (trừ 2 luận cứ 7 & 8).

[70] NNBCĐH. (BAVH., 1917), tập IV, Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 272 – 273.

[71] Giải triều… : Chia tách triều chính… (hoặc Tan tác triều đình …).

** Chính Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tứ và đệ ngũ kỉ, biên soạn chủ yếu dưới thời Thành Thái, lại khắc in cũng ở thời Thành Thái, năm thứ 6 (1894) đến năm thứ 14 (1902) – Thành Thái là con trai của Dục Đức! – đã làm sáng tỏ nhân cách đạo đức của Nguyễn Văn Tường trong bi kịch bị vu khống này, cũng như tất thảy những vụ việc khác, một cách chi tiết trong hạn chế của ý hệ bảo hoàng! [ĐNTL.CB., các tập 27 – 36, sđd.; lời dụ và tờ tâu về việc khắc in, tr. 12 và tr. 17 (tập 27), tr. 5 và tr. 13 (tập 36)]. Còn đệ lục kỉ gồm hai tập 37, 38 viết về triều Đồng Khánh, khắc in vào năm 1909, có lời dụ của Duy Tân (còn quá bé) ngợi ca cả Đồng Khánh (14) bù nhìn, tay sai hèn hạ, chống người yêu nước chân chính và phong trào Cần vương ấy [ĐNTL.CB., tập 37, tr. 5 – 6], hẳn là ĐÁNH GIÁ NGƯỢC để lưu sự thật. Chính Duy Tân lại theo con đường của Hàm Nghi, với sự bàn bạc, thực hiện kế hoạch cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân, cũng là theo kế hoạch 1885 của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trước đó. Hai vị vua yêu nước này đã bị Pháp lưu đày như Nguyễn Văn Tường. [Chúng tôi không muốn nói đến giai đoạn sau của vua Duy Tân!].

[Xin xem chú thích (14) ở cuối bài khảo luận này].

[72] Câu đối của Vũ Tử Văn? hay của Đào Tấn? (Nguyễn Mạnh Hào dịch). Chúng tôi có nhiều cứ liệu để có thể xác định là của Vũ Tử Văn.

[73] ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 126 –127.


Tp. HCM, giữa năm 2000 & 27.4.2002 (HB.2).
Bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau Cuộc Kinh đô quật khởi 05.7.1885” này đã được đăng tải trong cuốn Hội thảo khoa học: Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế – Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế ấn hành, Huế – 02.7.2002, tr. 59 – 83.
Tháng 8.2003 (HB.3), nhuận sắc (*).
TXA.


(*) TRẦN XUÂN AN, tác giả bài viết và cũng là người chú thích (viết tắt: nct.) và chua thêm hoặc in đậm ở các đoạn trích dẫn nguyên văn (viết tắt: ct., iđ.). Đại từ "chúng tôi" được dùng ở đây như một cách khiêm xưng và trân trọng, thay vì chữ "tôi" gọn lỏn và cộc lốc.